Như vậy tôi nghe một lúc đức
Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Ðộc cùng chúng đại Tỳ Kheo ngàn
hai trăm năm mươi người câu hội, đều là A La Hán các lậu đã hết không còn
phiền não, được thượng điều phục như đại long, chỗ làm đã xong bỏ những
gánh nặng đã được lợi mình hết kiết sử các cõi, chánh trí giải thoát tâm
được tự tại, tối thượng ứng cúng mọi người quen biết, chỉ có Ngài A Nan
còn ở bực hữu học. Tên của các Ngài ấy là:A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca
Diếp, Ma Ha Ca Chiên Diên, Ma Ha Ca Thấp Ba, Xá Lợi Phất, Ðại Mục Kiền
Liên,
Ma Ha Kiếp Tân Na, Ma Ha Câu
Si La, Ma Ha Phạm Phả, La Hầu La, Nan Ðà v. v…làm bực thượng thủ.
Lại có năm trăm đại Bồ Tát
câu hội đều được tam muội và đà la ni.
Bấy giờ trong thành Xá Vệ có
trưởng giả tên Dũng Mãnh giàu có nhiều của báu kho đụn đầy tràn, những
vàng bạc lưu ly xa cừ mã não san hô hổ phách ma ni chơn châu voi ngựa bò
dê kẻ hầu người hạ các loại buôn bán tất cả đều nhiều. Thưởng giả Dũng
mãnh Thọ cùng năm trăm trưởng giả yến hội nghị rằng: «Nầy các Ngài! Phật
xuất thế khó, được thân người khó, gặp Phật cũng khó, ở trong Phật pháp
do lòng tinh xuất gia cũng khó, thành tánh Tỳ kheo lại càng khó, đúng
phép tu hành cũng khó, biết ơn báo ơn mang chút ơn chẳng quên người nầy
khó có, ở nơi Phật phápcó thể sanh lòng tin ưa người nầy khó được, tin
ưa thành tựu việc nầy lại khó, trang nghiêm Phật pháp sự nầy cũng khó,
giải thoát sanh tử càng khó gấp bội. Chúng ta vì Thanh Văn thừa Bích Chi
Phật thừa mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu tối thượng Phật thừa».
Mọi người đều xướng lên rằng:
«Chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết Bàn».
Chúng trưởng giả quyết nghị
xong cùng xuất thành đến rừng Kỳ Ðà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng
ngồi qua một bên.
Ðức Thế Tôn biết mà cố ý hỏi:
«Chư trưởng giả có duyên gì nay đến chỗ Phật? ».
Trưởng giả Dũng Mãnh Thọ cùng
năm trăm trưởng giả đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chấp tay
cung kính bạch Phật rằng: «Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi đồng tập hội nghị
rằng: Phật xuất thế khó, thân người khó được nhẫn đến giải thoát sanh tử
càng khó gấp bội, nay chúng ta sẽ ở nơi Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa
mà cầu diệt độ hay sẽ phát xu vô thượng Phật thừa! Chúng tôi đồng xướng
lên rằng: chúng ta phải ở nơi vô thượng Phật đạo mà chứng Niết bàn. Do
quyết nghị ấy mà chúng tôi đến chỗ đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác.
Bạch đức ThếTôn! Ðại Bồ Tát
chí cầu vô thượng Bồ đề, phải học thế nào? Trụ thế nào? Tu thế nào?.
Ðức Phật nói: «Lành thay lành
thay! Các ông phát xu Vô thượng Bồ đề đến chỗ Phật phải lắng nghe kỹ khéo
nghĩ nhớ lấy. Như chư đại Bồ Tát nên học nên trụ nên tu sẽ vì các ông mà
nói ».
Chúng trưởng giả vâng lời dạy
lắng nghe.
Ðức Phật phán dạy: «Nầy chư
trưởng giả! Ðại Bồ Tát ở nơi vô thượng Bố đề có chí nguyện thù thắng phải
đối với tất cả chúng sanh khởi tâm đại bi, phải rộng tu hành phải siêng
huân tập. Vì thế nên Bồ Tát ở nơi thân thể sanh mạng tài sản vợ con kho
tàng nhà cửa uống ăn y phục xe cộ mền nệm hoa hương tất cả đồ dùng phải là
không ái trước. Tại sao?Vì chúng sanh chấp trước nơi thân mà tạo nghiệp
ác, do nghiệp ác mà đọa trong địa ngục. Nếu đối với chúng sanh khởi tâm
đại bi thì chẳng chấp trước thân mạng tài và sẽ sanh thiện đạo. Ðại Bồ
Tát ở nơi vô thượng Bồ đề có chí nguyện thù thắng đối với chúng sanh khởi
từ bi rồi phải tu đại xả mà chẳng cầu báo, người chẳng cầu báo phải an trụ
giới luật, ba giới thanh tịnh rồi phải đủ nhẫn nhục hay nhẫn các điều ác
hại rồi nên phát khởi tinh tiến chẳng tiếc thân mạng, nên tu nhứt tâm an
trụ thiền định, nên tu trí huệ thiện xảo phương tiện, phải ở nơi ngã nhơn
chúng sanh thọ mạng đều xả ly. Vì chúng sanh nên hành bố thí thọ trì cấm
giới, vì chúng sanh nên tu nhẫn nhục phát khởi tinh tiến, vì chúng sanh
nên nhập thiền định tu tập trí huệ thiện xảo phương tiện».
Chúng trưởng giả bạch Phật:
«Bạch đức Thế Tôn! Ở nơi thân mạng và vợ con tất cả tài vật lòng chúng
tôi thường mến tiếc. Ðại Bồ Tát quan sát thế nào ở nơi thân mạng tài có
thể không tham lẫn? ».
Ðùc Phật phán dạy: «Nầy thiện
nam tử! Ðại Bồ Tát có chí nguyện thù thắng nơi Vô thượng Bồ Ðề phải quan
sát thân nầy có vô lượng lỗi họa, các vi trần tích tập sanh trụ dị diệt
niệm niệm dời đổi, chín cửa chảy dơ như hang rắng độc, trong ấy không chủ
như xóm hoang vắng, rốt ráo phá hoại như ngói bình chưa nung, nước dơ đầy
tràn như chậu phẩn dãi, chứa những bất tịnh như hầm tiêu, chẳng động chạm
đến được như nhọt dữ, tham ngon bị họa như món ăn lộn chất độc, chẳng biết
ơn đức như Vị Sanh Oán, khi dối mọi người như ác tri thức, bị si ái hại
như làm bạn khỉ vượng, dứt mạng trí huệ như sát nhơn, đoạt các pháp lành
như trộm cướp, thường tìm dịp hại như oán thù, không có từ tâm như người
hàng thịt, khó hầu gần như kẽ bạo ác, như tên cắm vào thân động tới thì
đau như nhà hư mục phải luôn sửa sang, như xe cũ hư khó dùng, như hộp rắng
độc khó gần, như quán trọ chỗ họp của kẻ mệt mõi, như nhà cô độc không bị
nhiếp thuộc, như lính ngục chuyên hai, như vua lo nước, như thành trì biên
giới phải phong sợ, như ác quốc nhiều tai họa, như chén bể khó cầm, như
thờ lửa không chán, như dương diệm hư dối, như huyễn hóa mê hoặc người như
lột cây chuối không lõi cứng, như khối bọt nước chẳng nắm cầm được, như
bong bóng nước mau sanh mau diệt, như cây bờ sông lâm nguy lai động, như
giòng sông chảy xiết trọn đến biển chết.
Bồ Tát lại quan sát thân nầy
nhơn duyên trước sau của nó, ban đầu do dục ái hòa hiệp mà sanh, vì nuôi
lớn lên nuốt đồ ăn vào đến sanh tạng đàm ấm tiêu hóa, kế vào đến huỳnh
tạng lúc sắp thục thì biến làm chất chua, kế vào đến phong tạng do phong
lực chia ra nước và cặn bã lưu hành riêng thành đại tiểu tiện. Nước biến
ra máu máu biến thành thịt, trong thịt sanh mỡ, nơi mỡ sanh xương sanh
tủy. Nhơn duyên của thân thể trước sau đều bất tịnh như vậy.
Khi quan sát như trên Bồ Tát
lại nên suy nghĩ: Thân nầy do ba trăm sáu mươi khối xương ráp thành như
nhà mục hư, các lóng đốt chi trì dùng bốn lưới mạch giăng bủa giáp vòng,
năm trăm phần thịt như bùn tô trét, sáu mạch cột nhau, năm trăm gân ràng
rịt, bảy trăm mạch nhỏ dùng làm lạc bện, mười sáu mạch to câu mang liền
nhau, có hai sợi dây thịt dài ba tầm rưỡi vấn gút nơi trong, mười sáu
trường vị vây quanh sanh tạng thục tạng, hai mươi lăm mạch hơi như kẻ
song, , một trăm lẻ bảy cửa huyệt như bình bể nát, tám vạn lỗ lông như cỏ
loạn trùm, năm căn bảy khiếu đầy tràng chất dơ, bảy lớp da gói ghém, lục
vị nuôi lớn như thờ lửa nuốt thâu chẳng chán.
Thân thể như vậy tất cả hôi
dơ tánh chất thúi rã. Có ai nên ái trọng nó mà sanh kiêu mạn. Chỉ nên
quan sát nó như giữ cái bình, như gìn chiếc xe, nuôi dưỡng nó để được đến
Bồ Ðề vậy ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
«Thân nầy là chậu dơ
Dường như bình đựng phẩn
Phàm phu không trí huệ
Cậy sắc sanh kiêu mạn
Trong mũi hằng chảy mũi
Hơi miệng luôn hôi hám
Mắt ghèn thân đầy trùng
Ai nên tưởng lạc sạch
Như người cầm hòn than
Mài dồi muốn trắng bóng
Dầu mài đến mòn hết
Thể sắt than không đổi
Dầu muốn thân mình sạch
Rửa hết cả nước sông
Thân trọn không sạnh được
Vì thể chất vốn dơ.
Nầy các thiện nam tử! Nếu Bồ
Tát phátchí nguyện thù thắng hướng đến vô thượng Bồ đề thì nên quan sát
thân thể nầy bốn mươi bốn thứ:
Một là thân nầy đán chán vì
tánh không hòa hiệp vậy. Hai là thân nầy hôi dơ vì máu mủ thường chảy
vậy. Ba là thân nầy chẳng bền vì cứu cánh bại hoại vậy. Bốn là thân nầy
yếu đuối vì chi tiết trì nhau vậy. Năm là thân nầy chẳng sạch vì chất dơ
dáy đầy tràn vậy. Sáu là thân nầy như ảo thuật vì phỉ gạt phàm phu vậy.
Bảy là thân nầy như miệng nhọt vì cửu khiếu thường chảy vậy. Tám là thân
nầy lưả cháy vì lửa dục thạnh vậy. Chín là thân nầy là lửa vì lửa giận
mạnh vậy. Mười là cháy khắp vì lửa si cháy khắp vậy. Mười một là thân
nầy tối tăm vì tham sân si vậy. Mười hai là thân nầy sa lưới vì bị lưới
ái trùm vậy. Mười ba là thân nầy là khối ung nhọt vì đầy ung nhọt vậy.
Mười bốn là thân nầy chẳng an vì bốn trăm lẻ bốn bệnh vậy. Mười lăm là
chỗ ở của côn trùng vậy. Mười sáu là thân nầy vô thường vì cứu cánh phải
chết vậy. Mười bảy là thân nầy ngoan si vì không rõ các pháp vậy. Mười
tám là như đồ sành vì sanh trụ hoại vậy. Mười chín là bức bách vì nhiều
lo sầu vậy. Hai mươi là không được cứu hộ vì chắc hoại diệt vậy. Hai
mươi mốt là hiểm ác vì siễm cuống khó biết vậy. Hai mươi hai là như hố
không đáy vì tham muốn không chán vậy. Hai mươi ba là như lửa nhận củi vì
tham sắc chẳng nhàm vậy. Hai mươi bốn là không nhàm đủ vì tham thọ ngũ
dục vậy. Hai mươi lăm là như bị đập đánh vì bị tổn hại vậy. Hai mươi sáu
là bất định vì thạnh suy tăng giảm vậy. Hai mươi bảy là thân chuyển theo
tâm vì chẳng chánh tư duy vậy. Hai mươi tám là chẳng biết ơn vì chắc bỏ
gò mả vậy. Hai mươi chín là bị kẻ khác ăn vì chồn sói kiến mối ăn vậy.
Ba mươi là như bộ máy vì gân xương chi trì vậy. Ba mươi mốt là chẳng khả
quan vì máu mủ phẩn dơ vậy. Ba mươi hai là chẳng tự do vì phải nương uống
ăn vậy Ba mươi ba là hư vọng gói cột vì trọn bại hoại vậy. Ba mươi bốn là
ác hữu vì nhiều nghịch hại vậy. Ba mươi lăm là kẻ giết hại vì nó tự tàn
hại vậy. Ba mươi sáu là đồ khổ họa vì nhiều khổ bức bách vậy. Ba mươi
bảy là khối khổ vì năm uẩn sanh vậy. Ba mươi tám là không có chủ vì các
duyên sanh vậy. Ba mươi chính là không có mạng vì rời lìa tướng nam nữ
vậy. Bốn mươi là rỗng không vì phải quán uẩn giới sứ vậy. Bốn mươi mốt là
hư vọng vì như chiêm bao vậy. Bốn mươi hai là chẳng thiệt vì như huyễn
hóa vậy. Bốn mươi ba là huyễn hoặc vì như dương diệm vậy. Bốn mươi bốn
là thân nầy khi dối vì như bóng tượng trong gương vậy.
Lúc quan sát thân thể như
vậy, đối với thân mạng vợ con tài vật Bồ Tát đều lìa chán không còn ái
luyến mau thành tựu sáu Ba la mật sớm được vô thượng Bồ đề ».
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
« Ðược thân người tốt thật là
khó
Chớ vì thân nầy tạo nghiệp ác
Cứu cánh gò hoanh nuôi chồn
sói
Chớ vì ác kíến sanh tham ái
Phàm ngu mê hoặc vì cuồng si
Do ái thân nầy tạo ác nghiệp
Thân nầy cũng lại chẳng biết
ơn
Ngày đêm chỉ thêm duyên khổ
họa
Cơ quan động chuyển thường
mỏi nhọc
Mũi qiải tiên lợi hằng tràn
đầy
Ðói khát nóng rét luôn bức
ngặt
Nào có người trí lại ái thân
Thân nầy không nhàm như hố
sâu
Luống hay nuôi lớn những oán
hại
Do nơi thân nầy thường làm ác
Phải thọ khổ báo vô lượng
kiếp
Nên nhớ gìa chết siêng tu
phước
Chánh tín sanh vào trong Phật
pháp
Uống ăn y phục các hương thoa
Dưỡng nuôi thân nầy đã từ lâu
Ai hay nắm giữ cho chẳng hoại
Phải biết vô ích chớ đam mê
Ðức Phật Như Lai rất khó gặp
Trong vô lượng khiếp một lần
hiện
Ðối với Phật pháp nên tin sâu
Ác đạo đáng sợ chớ theo nó
Dầu cho sống lâu ngàn kiếp
năm
Còn sợ vô thường sanh lòng
chán
Huống là giây lát không bảo
đảm
P hải bị trầm luân trong ác
đạo
Hoặc có ác hữu đến khuyên bảo
Thân người khó được nay đã
được
Cầu nhiều của báu hưởng dục
lạc
Kịp thuở khỏe mạnh vui chơi
thỏa
Có ai cầu của mà sung sướng
Dầu được giữ gìn vẫn khổ nhọc
Người ngu như vậy luống vọng
ngôn
Thế nên người trí phải quan
sát
Tài vật như ảo cũng như mộng
Chúng sanh ngu si bị phỉnh
lầm
Trong sát na được sát na mất
Ðâu có người trí lại mến luyến
Như nhà ảo thuật hóa ảo sự
Thành càn Thát Bà nhiều hình sắc
Của báu cũng vậy gạt phàm ngu
Ở trong hư vọng nào có thiệt
Chiu nhiều khổ não cầu tài lợi
Nước lửa vua giặc thường xâm
đoạt
Do đây hay làm nhơn duyên khổ
Ðâu có người trí sanh mếm luyến
Có những kẻ thường hoài tham ái
chạy theo tài lợi không biết
chán
Ðối với cha mẹ không từ tâm
Cho đến thân thuộc sanh oán hại
. Lời nói thuận hành lòng sâu
độc
Gây tạo nhiều nghiệp duyên khi
dối
Hoặc học tà luận tà chú thuật
Dối khoe tài nghệ như dâm nữ
Hoặc lại siểm cuống hiện nhu hòa
Hoặc lại cang cư
ờng hiện oai mãnh
Vô lượng ác nghiệp nhiều như vậy
Không gì chẳng do tài lợi
sanh
San hô vàng ngọc châu ma ni
Vật ấy bổn lai như bọt bóng
Chẳng biết được nó như ảo hóa
Vì vật hư giả đọa tham đồ
Thời kỳ Di Lạc Phật xuất thế
Bổ xứ thành Phật nối Thích Ca
Cõi nước hoàng kim lót mặt
đất
Thất bửu hiện ra từ đâu đến
Kiếp tận thế gian bị thiêu
hoại
Tu Di sông biển khô cháy hết
Cứu cánh hư mất hoàn hư không
Những của báo nầy đi về đâu
Gây tạo nghiệp báo ác cầu tài
vật
Nuôi nấng vợ con cho rằng vui
Ðến lúc lăm chung khổ bức
thân
Hoặc vợ hoặc con không cứu
được
Ở trong tam đồ kinh sợ kia
Chẳng thấy vợ con cùng thân
thuộc
Ngựa xe của báu thuộc người khác
Thọ khổ có ai chia sớt được
Cha mẹ anh em cùng vợ con
Bằng hữu bè bạn và của cải
Chết đi không một cùng gần kề
Chỉ có ác nghiệp thường theo sát
Người trí trọn chẳng vì thân ái
Mà tạo nghiệp mãn mời ra khỏi
Thân thuộc không ai thay thế
được
Diêm La sứ giả chỉ khảo nghiệp
Chẳng hỏi thân quyến và bằng hữu
Người được thân người chẳng bỏ
ác
Khổ sở nay phải cam nhận chiu
Diêm La thường bảo người tội ấy
Ta không gia được một chút tội
Người tự tạo tội nay tự đến
Nghiệp báo tự chiệu không ai thế
Cha mẹ vợ con không cứu được
Chỉ nên siêng tu nhơn xuất thế
Thế nê phải bỏ nghiệp xích xiềng
Khéo biết xa lìa cầu an lạc
Với vợ con nhà nên biết sợ
Hằng nương Phật giáo chánh tu
hành
Tại gia phùng thạnh là gốc khổ
Dường như lò lữa rất đáng sợ
Thân tâm nóng bức bị đốt cháy
Ðâu có người trí sanh tham ái
Ưa thích tu hành các Phật pháp
Không hề doanh cầu là khoái lạc
Phàm phu ngu tối chẳng biết hay
Nhà là gốc khổ lại tham ái
Nơi khối da xương gân thịt kia
Mê lầm vọng tưởng là chồng vợ
Chẳng biết thân thể như ảo hóa
Phàm phu ngu tối sanh tham ái
Người trí biết thân là lỗi họa
Dục lạc trong đời đều vất bỏ
Cầu pháp phải như cầu lương dược
Phải mau bỏ lìa dây tại gia ».
Nghe pháp xong năm trăm trưởng
giả được vô sanh nhẫn vui mừng hớn hở nói kệ rằng:
«Mừng thay được lợi lớn
Tối thượng trong lợi ích
Chúng tôi đối Phật pháp
Ðều sanh lòng vui thích
Phát xu đại Bồ đề
Lợi lạc cho chúng sanh
Pháp lành dùng nuôi mạng
Giác huệ tự an tâm
Thương xót các chúng sanh
Nguyện sẽ thành Phật đạo
Chúng tôi đều đã phát
Tâm Bồ đề vô thượng
Thân vàng tướng trang nghiêm
Chiếu sáng khắp thế giới
Người thích tâm Bồ đề
Sẽ được tâm Như Lai
Ðại tâm Bồ đề tâm
Tối thượng trong các tâm
Giải thoát tất cả phược
Ðầy đủ các công đức
Các chúng sanh ít phước
Nơi đây không ưa thích
Chẳng nhìn lỗi sanh tử
Chẳng thích tâm Bồ đề
Tâm Bồ đề công đức
Nếu có sắc phương phần
Rộng khắp cõi hư không
Không gì dung chứa được
Trong sát độ chư Phật
Nhiều như các sông Hằng
Giả sử trải trân bửu
Dùng cúng dường chư Phật
Có người hay chấp tay
Hồi hướng tâm Bồ đề
Phước đây hơn phước trên
Chẳng thể suy tính được
Nào riêng phước cúng dường
Phước khác cũng như vậy
Tâm Bồ đề như vậy
Ðấng Tối Thắng tuyên nói
Tâm Bồ đề tối thắng
Như thuốc a già đà
Trừ được tất cả bịnh
Cho tất cả an vui
Tôi thấy các chúng sanh
Bị ba đọc nhiệt não
Trí giả vô lượng kiếp
Cần khổ thường tu tập
Như Y Vương dũng mãnh
Ðầy đủ hạnh Bồ đề
Cứu vớt chúng sanh khổ
Lìa hẳn các ưu não
Tất cả chỗ thọ sanh
Trọn chẳng bỏ thân nầy
Siêng tu các hạnh nguyện
Dũng mãnh cầu Phật pháp
Chúng tôi được lợi lành
Chúng tôi lòng vui thích
Nay gặp Phật Thích Ca
Sẽ được thân Như Lai ».
Bấy giờ đức Thế Tôn liền mỉm
cười, từ diện môn của đức Phật phóng ra những thứ tia sáng sanh vàng đỏ
hồng tía pha lê chiếu đến vô lượng vô biên thế giới cho đến trời Phạm Thế,
oai quang cùa nhựt nguyệt đều bị ẩn khuất, trở về nhiễu ba vòng rồi
nhậpvào đảnh Phật.
Tôn giả An Nan đứng vậy trịch
y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay bạch đức Phật rằng: «Bạch thế Tôn! Có
nhân duyên gì mà đức Phật mỉm cười ».
Tôn giả liền kệ rằng:
«Chư Phật là đạo sư tối
thượng
Chẳng không duyên cớ hiện mỉm
cười
Ðấng thương xót lợi ích thế
gian
Xin nói nhơn duyên của sư ấy
Chúng sanh nghèo thiếu không
pháp tài
Nên ban nói thừa lớn tối
thượng
Hay làm mắt sáng cho thế gian
Xin nói nhơn duyên Phật cười
mỉm».
Ðức Phật phán dạy: «Nầy An
Nan! Ông có thấy năm trăm trưởng giả nay ở trước Phật phát tâm vô thượng
Bồ đề chăng?
-Vang tôi đã thấy, bạch đức
Thế Tôn!
-Nầy A Nan! Năm trăm trưởng
giả nầy thuở xưa đã ở nơi trăm ngàn ức na do tha chư Phật thừa sự cúng
dường, trồng các thiện căn, nay nghe ta nói pháp đều được vô sanh nhẫn.
Các trưởng giả nầy về sau chẳng còn sanh ác đạo thường thọ khoái lạc trong
Nhơn Thiên. Ðời sau ở chỗ Di Lạc, các trưởng giả nầy thân cận cúng dường
cung kính tôn trọng tán thán, với tất cả chư Phật trong Hiền kiếp cũng như
vậy, ở chỗ chư Phật nghe chánh pháp thọ trì đọc tụng vì người mà giảng
nói. Quá hai mươi lăm kiếp, các trưởng giả nầy sẽ ở trong các Phật độ
thành Vô thượng Bồ đề đều thành một danh hiệu Thắng Liên Hoa Tạng Như Lai
Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác».
Tôn gỉa An Nan bạch đức Phật:
«Hi hữu Thế Tôn! Hi hữu Thiện Thệ! Nên đặt tên pháp môn quảng đại nầy là
gì, chúng tôi phải thọ trì thế nào? ».
Ðức Phật phán dạy: «Nầy A
Nan! Pháp môn nầy tên là Du Già Sư Ðịa, cũng gọi là Dũng Mãnh Thọ Trưởng
Gỉa Sở Vấn, ông nên thọ trì».
Ðức Phật nói kinh nầy rồi,
Tôn Gỉa A Nan và các Tỳ Kheo năm trăm trưởng giả các chúng Bồ Tát, Trời
Người Thiên Long Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng
hành.
PHÁP HỘi DŨNG MÃNH THỌ TRƯỞNG GỈA
THỨ HAi MƯƠi TÁM
HẾT
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|