× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 23 PHÁP HỘI MA HA CA DIẾP THỨ HAI MƯƠI BA 2

Lại có bốn pháp, Bồ Tát nếu đủ bốn pháp nầy thì được viên mãn trí vô thượng, đó là Bồ Tát cầu đa văn, được đa văn rồi vào các tụ lạc thành ấp thuyết pháp, không hề hi vọng cho đến chẳng nhận một câu khen hay, lòng không hề ham muốn, trong tất cả hạnh bố thí của chư Phật dạy pháp thí là đệ nhứt, Bồ Tát an trụ đệ nhứt bố thí lòng vui mừng, chẳng cầu bố thí tài vật thế gian.  Tại sao, nầy thiện nam tử !  Trong vô số a tăng kỳ thế giới mười phương, chư Phật Như Lai và Tỳ Kheo Tăng chẳng thiếu đồ dùng thế gian.  Nếu có Bồ Tát giữ giới thanh tịnh tu tập chánh pháp có tâm đại bi chẳng cầu lợi dưỡng thì được tất cả chư Phật nhớ ghi.  Nếu có Bồ Tát hay nói bốn câu kệ nói văn tự của bài kệ đều tự tánh không tất cả các pháp cũng tự tánh không, Bồ Tát nầy được thiện căn công đức hơn thiện căn công đức trước trăm ngàn vạn ức phần cho đến a tăng kỳ phần.

Diệu Hoa Như Lai bảo hai vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp :

Bồ Tát có đủ bốn pháp thì được thành hạnh vô thượng của Như Lai : Một là đi chỗ vô thượng, hai là nói pháp vô thượng, ba là thí vật vô thượng, bốn là tin pháp vô thượng.

Hai vương tử nghe đức Diệu Hoa Như Lai nói pháp trên đây rồi liền vọt lên hư không cao bảy cây đa la, đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật :

Như Lai biết các hành

Dạy chúng sanh bố thí

Mà chẳng chấp nơi thí

Đây là vô thượng thí

Hay thành nhẫn vô thượng

Trong ấy không có ngã

Không nhơn chúng sanh mạng

Hi hữu đại tinh tấn

Diễn nói pháp như vậy

Hay thành tâm pháp nhẫn

Và được vô thượng hạnh

Cũng được vô thượng trí

Dứt hẳn các dục não

Đại trí huệ thanh tịnh

Chẳng còn thọ hậu hữu

Nói các hạnh viễn ly

Khiến an trụ tịch tĩnh

Tu tập không giải thoát

Cũng chẳng sanh phân biệt

Thường siêng làm bố thí

Chẳng sanh khởi phân biệt

Đây là vô cấu tế

Xa rời các danh tự

Nói thanh tịnh thi la

Khiến đi chỗ tịch diệt

Đây là đệ nhứt giới

Chỗ giác tri tịch diệt

Thường tu hành trí nhẫn

Chẳng phân biệt chúng sanh

Đây là thanh tịnh nhẫn

Rời tất cả phân biệt

Tu kiên cố tinh tấn

Rời tất cả hữu vi

Phật nói tinh tấn này

Hay thành pháp viễn ly

Đốt cháy tất cả sự

Đoạn dứt những hữu vô

Vô phân biệt thiền này

Chẳng sanh các phiền não

Chẳng đây chẳng phải kia

Trung gian cũng chẳng trụ

Là đệ nhứt trí huệ

Rời xa cả tam thế

Tu tập tịch diệt tưởng

Lại quan sát tưởng ấy

Tưởng ấy sanh chỗ nào

Vì thế biết vô tưởng

Tán thán Phật công đức

Diễn nói pháp đệ nhứt

Tâm ấy không dị niệm

Nghe thọ Phật chánh pháp

Nói danh tự vô tận

Tự tánh thể chẳng thành

Quán cảnh giới không thiệt

Thì tâm ấy giải thoát

Cảnh giới được tự tại

Nếu sanh ý tưởng nầy

Tôi là người thuyết pháp

Thì bị ma nó trói

Chẳng biết các pháp tướng

Nếu muốn được Bồ đề

Và người cầu Thanh Văn

Cầu Duyên Giác Bồ đề

Phải tu học pháp này

Diễn nói một giải thoát

Trí huệ vô biên lượng

Chớ phát nguyện hạ liệt

Nên nguyện vô thượng trí

Nếu cầu thân như vậy

Tướng hảo tự trang nghiêm

Như thân Phật kim sắc

Nên cầu vô thượng trí

Sanh khởi tất cả pháp

Tác giả bất khả đắc

Các pháp từ duyên sanh

Tự tánh không tự tánh.

Lúc hai vương tử ở hư không nói kệ ấy, vua Ni Di từ đô thành đi ra, các địa thần hư không thần đều đến tập họp.  Bấy giờ có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề, a tăng kỳ chúng sanh gieo trồng căn lành.

Hai Vương tử từ hư không xuống lễ Phật bạch rằng : Bạch Thế Tôn !  Chúng tôi quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng phát tâm Vô thượng Bồ đề dùng hình Tỳ Kheo hành đạo Bồ Tát.  Bạch Thế Tôn !  Người chơn phát tâm tin tất cả pháp vô sanh.  Bạch Thế Tôn ! Người chơn phát tâm chẳng trước các pháp.  Tại sao? Vì có trước thì pháp chẳng sanh, thế nên nói rời tâm trước pháp thì được vô sanh ấy.  Bạch Thế Tôn ! Vô sanh này cũng chẳng nên nói là vô sanh.  Tại sao ?  Vì có ngôn thuyết thì có sanh diệt.  Nếu có đủ tịnh trí thì không sanh diệt, chỗ không sanh diệt là cứu cánh tận.  Vì thế nên dùng bình đẳng tế phát tâm Vô thượng Bồ đề chẳng nhớ nghĩ nơi pháp, cũng không pháp được pháp chẳng được.  Được pháp bình đẳng như vậy cũng không được bình đẳng.  Tại sao ?  Vì tất cả pháp bổn tánh thanh tịnh vậy.

Lúc Diệu Hoa Như Lai vì hai Vương tử nói pháp ấy, trong đại chúng có mười ngàn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn.  Vua Ni Di và ngàn Vương tử cùng năm ngàn đại thần đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Thọ trai xong rửa bát rồi, đức Diệu Hoa Như Lai ở trong đại chúng bảo vua Ni Di : Nay ta thuyết pháp.

Vua và đại chúng nghe Phật sẽ thuyết pháp đều vui mừng hớn hở.

Bấy giờ hai Vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp nghe Phật sẽ thuyết pháp do tâm tịnh tín rời lìa lửa dục cần cầu xuất gia liền xuất thành muốn đến chỗ Phật và nói kệ rằng :

Tất cả chư Như Lai

Tán thán pháp xuất gia

Tại gia nhiều cấu uế

Hư mất pháp bạch tịnh

Tăng trưởng pháp bất thiện

Hủy diệt các thiện pháp

Tại gia nhiều tội lỗi

Xuất gia rời nhiễm ô

Giả sử trăm ức kiếp

Thọ dục không chán đủ

Tại gia như chết mất

Thọ dục không chán đủ

Như biển thọ các dòng

Chẳng bao giờ biết đủ

Phàm phu cũng như vậy

Thọ dục chẳng biết đủ

Như lửa cháy cỏ khô

Không lúc nào biết chán

Phàm phu cũng như vậy

Thọ dục chẳng biết chán

Bị tham dục nó buộc

Phá hư cả thế gian

Thế nên phải rời buộc

Để phát tâm xuất gia

Tại gia đủ các lỗi

Chẳng được đạo vô thượng

Xuất gia tu viễn ly

Mới chứng được Bồ đề

Quá khứ chư Như Lai

Đã nhập đại Niết bàn

An trụ pháp tịch tĩnh

Chứng được đại Bồ đề

Nên phải theo học Phật

Xu hướng chỗ tịch tĩnh

Bỏ ân ái ly gia

Rồi mới được an ổn

Tất cả cõi Đại thiên

Trân bửu đầy trong ấy

Tại gia dưng chư Phật

Nếu dùng tâm vô não

Biết tội lỗi tại gia

Học chư Phật Như Lai

Xuất gia cầu trí huệ

Đã cầu xuất gia rồi

Rời xa các lửa dục

Cất chưn đi bảy bước

Hơn trân bửu cúng trên

Công đức cúng trân bửu

Chẳng bằng một phần này

Thế nên người xuất gia

Được chư Phật tán thán

Thành tựu đại trí huệ

Xa rời các trói buộc

Lìa tất cả chấp trước

Mới chứng vô thượng đạo

Mau ở chỗ tịch tĩnh

Dứt trừ các ái dục

Tất cả độc rối lòng

Dứt hết chẳng còn thừa

Học theo Phật Như Lai

Biết các pháp như thiệt

Mau xa rời tại gia

An trụ pháp tịch tĩnh

Nếu muốn cầu Phật đạo

Tu tập hạnh viễn ly

Phải học ở tịch tĩnh

Chẳng nên ưa tại gia

Đây là cảnh giới Phật

Trụ xứ của thánh nhơn

An trụ được đạo nầy

Thì hay được Bồ đề

Tham dục hại chúng sanh

Nếu người cầu viễn ly

Phải rời lìa tại gia

Tu tập hạnh tịch tĩnh

Muốn chứng pháp cam lộ

Chuyển pháp luân vô thượng

Dẹp xô các ma oán

Nên tu hạnh tịch tĩnh.

Nói kệ xong hai Vương tử thẳng đến chỗ đức Phật Diệu Hoa đảnh lễ hữu nhiễu ba vòng chắp tay cung kính bạch rằng :

Bạch Thế Tôn ! Nay chúng tôi ở chỗ đức Như Lai muốn cầu xuất gia, mong Phật thương xót nhận cho chúng tôi xuất gia.

Đức Diệu Hoa Như Lai biết hai Vương tử tín tâm thanh tịnh cầu pháp xuất gia liền cho xuất gia an trụ pháp Tỳ Kheo.

Vua Ni Di nghe hai Vương tử xuất gia liền truyền ngôi cho Thái tử rồi cùng chín trăm chín mươi chín Vương tử, tám vạn bốn ngàn phu nhơn, năm ngàn đại thần và số nhơn dân dùng tâm tin thanh tịnh rời lửa tham dục, đến lễ Phật cầu được xuất gia an trụ pháp Tỳ Kheo.

Thái tử lên ngôi vua bảy ngày tự nghĩ rằng : Tôi trọn chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí, nào cần gì ngôi vua báu để cho tham dục nó trói buộc.  Tôi trọn chẳng bỏ Vô thượng Bồ đề.  Suy nghĩ rồi phát tâm xuất gia, trong ngày rằm đi khắp bốn thiên hạ và nói kệ rằng :

Phụ vương cùng quyến thuộc

Thảy đều đã xuất gia

Vô lượng ức chúng sanh

Vì pháp cũng xuất gia

Nay tôi thích xuất gia

Chẳng ưa ở ngũ dục

Nhứt tâm cầu xuất gia

Muốn đến chỗ Như Lai

Ai phát tâm xuất gia

Rời lìa lửa tham dục

Phải mau theo tôi đi

Gặp Phật rất khó được

Chẳng phát tâm xuất gia

Chẳng rời được lửa dục

An tâm tại cư gia

An trụ nơi thiệt pháp

Lúc tân vương nói kệ tuyên cáo rồi, trong bốn thiên hạ không một ai ưa tại gia đều phát tâm nguyện cầu xuất gia.

Đức Diệu Hoa Như Lai biết tất cả chúng sanh trong tứ thiên hạ lòng tin thanh tịnh thích muốn xuất gia liền hiện Hóa Phật và Hóa Tỳ Kheo Tăng khắp tất cả thành ấp tụ lạc.  Khắp tứ thiên hạ không có một ai ở tại gia, tất cả đều dùng lòng tin thanh tịnh rời lửa dục được xuất gia làm Tỳ Kheo.

Sau khi toàn thể dân chúng bốn thiên hạ xuất gia, cõi đất ấy chẳng cần gieo trồng tự nhiên sanh ngạnh mễ, các rừng cây tự nhiên sanh y phục, tất cả chư Thiên cung cấp hầu hạ.

Hai Vương tử Đạt Ma và Thiện Pháp trong sáu mươi ba ức năm dũng mãnh tinh tấn chẳng nằm, cầu Nhứt thiết trí niệm Nhứt thiết trí được tam muội tên Biến chí, chỗ hai Vương tử ngồi tu tên Kim Cương xứ, chỗ ấy toàn bằng kim cương, mười phương chư Phật thuyết pháp đều nghe và thọ trì lại hay giảng nói cho mọi người.  Bấy giờ tất cả dân chúng trong tứ thiên hạ nếu là người tu theo thừa Thanh Văn thì không một ai còn thân phàm phu mà chết, kẻ tột giải đãi cũng được quả A Na Hàm sanh trời Tịnh Cư.  Những người tu theo thừa Duyên Giác, khi mạng chung sanh trong thế giới không Phật, trong dòng đại tộc đủ các căn, do sức thiện căn trước tự rời lửa dục tu xuất gia sau bảy ngày thành Duyên Giác đạo làm lợi ích vô lượng vô biên chúng sanh rồi nhập Niết bàn.  Những người tu theo thừa Bồ Tát thì được ngũ thông đủ bốn tâm vô lượng bốn biện tài được đà la ni”.

Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp : “Ông chớ có ý nghĩ gì khác.  Thuở ấy vua Ni Di là thân ta đây, Thái tử kia nay là Di Lặc Bồ Tát, Đạt Ma Vương tử là Văn Thù Sư Lợi và Thiện Pháp Vương tử nay là Hư Không Tạng Bồ Tát.

Nầy Ca Diếp ! Ông xem quốc độ của Phật Diệu Hoa thuở xưa ấy thanh tịnh toàn những chúng sanh đầy đủ thiện căn như vậy”.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn !  Đức Phật Diệu Hoa thọ bao nhiêu ?”.

Đức Phật nói : “Đức Diệu Hoa Như Lai thọ tám kiếp, sau khi đức Như Lai ấy diệt độ chánh pháp trụ thế mãn một kiếp.  Tất cả chư Thiên cúng dường Xá lợi vì không có người tại gia.  Bấy giờ hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp thiểu dục tri túc chẳng cúng Xá lợi chẳng lễ Phật tháp.  Chư Thiên và tân học Tỳ Kheo trăm ngàn đại chúng bảo nhau rằng : Hai Tỳ Kheo ấy tà kiến, chẳng tin Phật Xá lợi, chẳng cúng dường, chẳng lễ Phật tháp.  Hai Tỳ Kheo hỏi chư Thiên và đại chúng rằng : Ý các ngài nghĩ thế nào, cúng dường thế nào là chơn cúng dường Như Lai và do sự cớ gì mà Xá lợi Như Lai được cúng dường.  Đại chúng đáp : Do tu giới định huệ giải thoát và giải thoát tri kiến mà Xá lợi được cúng dường.  Hai Tỳ Kheo nói : Tu giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến là chơn cúng dường Như Lai chớ chẳng phải cúng Xá lợi.  Chư Tỳ Kheo tân học đồng nói : Đúng như vậy, đúng như lời hai ngài nói.  Thế nào là tướng của giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, xin giải bày cho.

Hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp nói :  Tướng vô tác là giới tướng, nhẫn đến tướng vô tác là giải thoát tri kiến tướng.

Hai Tỳ Kheo lại hỏi đại chúng rằng : Ý các ngài thế nào, vô tác hay cúng dường vô tác chăng ?

Đại chúng đáp : Không vậy.

Hai Tỳ Kheo nói : Chơn cúng dường là không Phật tưởng, không thấy Phật hà huống cúng dường.  Nếu cúng dường Phật thì nên cúng dường tự thân.

Đại chúng hỏi : Thế nào là cúng dường tự thân ?

Hai Tỳ Kheo đáp : Phải như là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cúng dường tự thân được tất cả chúng sanh cúng dường.  Như sở học của Phật, phải học theo như vầy : hộ trì cấm giới, họp các thiện pháp, tư duy các pháp, chớ lấy pháp tướng.  Nếu có thể tự cúng dường như vậy thì được Trời Người cúng dường.  Nếu muốn cúng dường Phật Xá lợi thì nên tự cúng dường.  Như đức Phật Như Lai đủ các công đức nên Xá lợi Phật được cúng dường, nếu người thành tựu được công đức như vậy thì gọi là cúng dường Phật.  Hoặc nhiều hay ít chẳng sanh phân biệt gọi là cúng dường Phật.  Chẳng phải hậu thế đi chẳng phải kim thế đến, chẳng phải thử ngạn, chẳng phải bỉ ngạn, chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải thủ chẳng phải xả gọi là cúng dường Như Lai, chẳng tăng chẳng giảm chẳng sanh chẳng diệt chẳng tận chẳng bất tận gọi là cúng dường Như Lai.  Chẳng tâm chẳng tâm số pháp chẳng ức tưởng chẳng ngã chẳng thủ chảng thọ, chẳng tránh luận chẳng phải chẳng tránh luận chẳng hủy chẳng tán chẳng hai chẳng nhập gọi là cúng dường Như Lai.  Thân vô sở tác khẩu vô sở tác ý vô sở tác nơi thân khẩu ý cầu bất khả đắc gọi là cúng dường Như Lai, không quá khứ tưởng vị lai hiện tại tưởng bất khả đắc vô y vô trước vô sở cầu tưởng, cũng chẳng phân biệt gọi là cúng dường Như Lai, không Phật tưởng không Pháp tưởng không Tăng tưởng không nhơn không tự không tha tưởng gọi là cúng dường Như Lai.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô sanh, chẳng nên dùng sanh mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô tác, chẳng nên dùng tạo tác mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là không hai tướng, chẳng nên dùng hai tướng mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô lậu, chẳng nên dùng hữu lậu mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là không tướng, chẳng nên dùng thân kiến, mạn kiến, đoạn thường kiến, ngã ngã sở kiến, hữu kiến, vô kiến mà sắm sửa cúng dường Như Lai.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô tướng, chẳng nên dùng có tướng mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô nguyện, chẳng nên dùng tướng có nguyện cầu mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô hữu, chẳng nên dùng tướng hữu mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng bất động, chẳng nên dùng tướng động mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng vô hành, chẳng nên dùng hành mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly tham, chẳng nên dùng tham mà sắm sửa cúng dường.  Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly sân, chẳng nên dùng sân mà sắm sửa cúng dường.  Chơn Như Lai thân gọi là tướng ly si, chẳng nên dùng si mà sắm sửa cúng dường Như Lai.

Chơn Như Lai thân đủ giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, chẳng nên dùng phá giới loạn tâm ngu si mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân đủ từ bi hỉ xả, chẳng nên dùng tâm sân tâm não tâm tật đố tâm tán loạn  mà sắm sửa cúng dường.

Chơn Như Lai thân đủ thí giới nhẫn tấn thiền huệ, chẳng nên dùng xan phá sân giải tán si  mà sắm sửa cúng dường.

Lúc hai Tỳ Kheo Đạt Ma và Thiện Pháp ở trong đại chúng nói pháp ấy, có bốn trăm hai mươi vạn chúng sanh được vô sanh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn chúng sanh được trí thanh tịnh quả A Na Hàm, hai trăm ba mươi vạn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề”.

Đức Phật bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp : “Nầy Ca Diếp ! Ông quan sát xem hai Tỳ Kheo ấy tâm thanh tịnh như vậy.  Ông nên học theo thâm nhẫn của hai Chánh Sĩ ấy cùng với phương tiện hay giỏi.

Nầy Ca Diếp ! Lúc hai Tỳ Kheo ấy ở trong đại chúng nói pháp như vậy, các Tỳ Kheo nghe pháp rồi đều an trụ thâm nhẫn đều làm hạnh thiểu dục tri túc chẳng cúng dường Xá lợi và tháp miếu Phật.  Tại sao, vì các Tỳ Kheo đều ưa thích thâm pháp.

Nầy Ca Diếp !  Sau đó bẩy ngày tất cả Phật pháp đều ẩn mất, các Phật Xá lợi ở trong bình cũng ẩn mất.

Nầy Ca Diếp !  Ông nên học theo thâm nhẫn của các chánh sĩ ấy”.

Đức Phật lại bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp : “Nếu biết đời mạt thế năm trăm năm sau, có chư Bồ Tát và chư Tỳ Kheo chẳng tu thân chẳng tu tâm chẳng tu giới chẳng tu huệ, họ vì sanh sống mà cúng dường Phật tháp và Phật Xá lợi, chẳng vì Niết bàn chẳng vì ly dục mà sắm sửa cúng dường.  Họ tự phạm cấm giới ngu si vô trí.

Xá lợi của Như Lai do huân tu giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến, họ vì sanh sống mà cúng dường tôn trọng.

Ở nơi Xá lợi của Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri rời lìa tham sân si, họ đủ tham sân si vì mạng sống mà bầy sự cúng dường.

Tự thân họ đủ tham xan tật đố sân khuể giải đãi tán loạn ngu si, nếu có đại thí chủ chánh trụ chánh tâm, họ vì mạng sống mà khuyến hóa khiến cúng dường Xá lợi Như Lai.

Nầy Ca Diếp !  Ta vì giáo hóa các thiện nam thiện nữ nhơn mới đầu phát tâm nên dùng sức thần thông lưu Xá lợi lại khiến họ cúng dường được thọ vui Nhơn Thiên để làm nhơn cho vị lai mãi đến Niết bàn.  Các người ngu si kia ở trong Phật pháp dầu được xuất gia mà chẳng hiểu Phật pháp, lại bỏ chánh hạnh xuất gia chuyên lo cúng dường tháp miếu Xá lợi để sanh sống.  Họ vì áo cơm vì lợi dưỡng vì danh văn mà cúng dường Phật Xá lợi.

Cái gì gọi là nghiệp hạnh của Tỳ Kheo ?  Như trên đã nói nghiệp hạnh của Sa Môn có hai thứ : Một là tu thiền, hai là tập tụng.  Nói như vậy là vì nhập đạo chớ chẳng phải thuyết cứu cánh.

Nầy Ca Diếp !  Nếu có tác nghiệp hay hết các nghiệp thì gọi là nghiệp của Sa Môn.

Không tác không tụng không thiền, không tác không vô tác, không niệm không chẳng niệm, vô tận vô sanh, chứng ba môn giải thoát chẳng ở tam giới, không lai không khứ,  đây là nghiệp Sa Môn.

Các chúng sanh kia rời lìa chánh nghiệp Sa Môn mà tập các nghiệp khác.

Các phước nghiệp kia là để giáo hóa hàng tại gia.  Các người tại gia thuận giáo pháp Như Lai sẽ được quả A Na Hàm.

Hạng ngu si kia ở trong Phật pháp đi xuất gia, họ còn chẳng tu hành pháp tùy thuận huống là có thể được.  Không bao giờ họ có thể được.

Nầy Ca Diếp !  Đời vị lai năm trăm năm sau, có hàng tương tợ Sa Môn, y phục hình mạo giống tượng Sa Môn mà giới chẳng tương tợ định chẳng tương tợ, huệ chẳng tương tợ.

Ví như có người biết giỏi phương thuốc và chú thuật, họ dùng chú thuật chú một ca sa cho người bảo mặc vào, người kia sanh tham liền mặc áo ấy đến bẩy ngày hoặc tám ngày thân thể nóng thiêu như khối lửa.  Cũng vậy, Tỳ Kheo thấy y phục đẹp liền thọ nhận mặc vào, sau đó hoặc trong nhà trong xóm hoặc trong rừng y phục ấy nóng lên như lửa đốt cháy căn lành của người.

Nầy Ca Diếp !  Ông nghĩ thế nào, người ấy mặc ca sa có lợi ích chăng ?

-Bạch Thế Tôn !  Không lợi ích.

-Nầy Ca Diếp !  Đúng như vậy.  Ca sa của Phật do sự tập họp của giới định huệ giải thoát giải thoát tri kiến vô lượng a tăng kỳ thiện căn.  Đời sau có người mặc thánh y hình tợ Sa Môn đi vào các thôn ấp, có hàng tín tâm Bà La Môn trưởng giả cư sĩ thấy người ấy mặc pháp phục cho là Sa Môn đều cùng tôn trọng cúng dường cung kính.  Người ngu si ấy do mặc ca sa mà được cúng dường sanh lòng vui mừng khi mạng chung đọa địa ngục bị lửa thiêu đốt, lá sắt nóng đỏ làm y phục, hoàn sắt cháy đỏ làm món ăn, nước sắt nóng chảy làm đồ uống, ngồi nằm giường sắt nóng.

Nầy Ca Diếp !  Ông xem ca sa pháp phục có oai đức rất lớn như vậy, mà kẻ ngu si kia mặc ca sa thọ lạc phóng dật tạo ác nghiệp mạng chung đọa địa ngục.

Nầy Ca Diếp !  Phật thường bảo rằng : thà đốt nóng lá sắt làm y phục chớ chẳng đem thân phá giới mà mặc ca sa, thà nuốt sắt nóng chớ chẳng đem thân phá giới mà ăn của tín thí.

Nầy Ca Diếp !  Ông xem người phá giới ăn của tín thí có lỗi như vậy, thế nên các ông phải tu học giới pháp thanh tịnh.

Nầy Ca Diếp !  Ông nghĩ thế nào, hoặc Trời, hoặc Rồng, hoặc Dạ Xoa, hoặc Càn Thát Bà, hoặc A Tu La, hoặc Ca Lâu La, hoặc Khẩn Na La, hoặc Ma Hầu La Già, hoặc Người, hoặc Phi Nhơn, có ai làm được thân tượng Như Lai chăng ?

-Bạch Thế Tôn !  Chẳng thể làm được, vì sắc thân Như Lai bất tư nghị không sắc tượng, nên các hạng chúng sanh ấy chẳng làm được.

-Nầy Ca Diếp !  Đời vị lai năm trăm năm sau, có các Tỳ Kheo chẳng tu thân tâm giới huệ, nếu ở trên vải lụa tường vách họ tạo tượng Như Lai để tự sanh sống, do nghiệp tạo tượng nuôi sống ấy họ tự cao tự mạn khi người”.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : “Bạch Thế Tôn ! Vua Ba Tư Nặc tạo tượng Phật được phước nhiều chăng ?

-Nầy Ca Diếp !  Được phước rất nhiều.  Vua Ba Tư Nặc tạo tượng Như Lai cúng y vô giá chẳng cầu lấy báo y phục ăn uống.

Nầy Ca Diếp !  Người ngu si đời sau vì sanh sống mà tạo tượng Như Lai.

Nầy Ca Diếp !  Người bán súc vật còn là nghiệp ác.  Huống là người ngu si tạo tượng Như Lai rồi đối với hàng bạch y mà rao bán để tự sanh sống.

Nầy Ca Diếp !  Ví như trẻ nít vô tri bỏ cam lộ mà uống độc dược.  Cũng vậy, kẻ ngu si kia tạo tượng Như Lai vì sanh sống mà đem rao bán, đây gọi là độc.  Nói độc đây là ở trong chánh pháp chính tham là độc đó.  Kẻ ngu si kia vì lòng tham mà sanh khởi giận ghét đấu tranh lẫn nhau chê bai lẫn nhau, đều tự nói tôi cúng dường Phật tượng.  Họ nhơn tranh luận mà đọa địa ngục.

 Nầy Ca Diếp !  Ví như có người không phương tiện giỏi lúc vào chiến đấu với kẻ địch đao kiếm của họ cầm trở lại thương tổn họ.  Cũng vậy, người ngu si kia không phương tiện giỏi, họ nhơn nơi chánh pháp mà đọa địa ngục.

Nầy Ca Diếp !  Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn dùng bảy báu tạo tháp Như Lai trang nghiêm thành tựu, mỗi tháp báu cao rộng tốt đẹp như núi Tu Di, họ tạo tháp như vậy khắp đầy hằng sa thế giới.  Ông nghĩ thế nào, người tạo tháp ấy được phước nhiều chăng ?

-Bạch Thế Tôn !  Tạo tượng tháp Như Lai bằng bốn ngón tay được phước vô lượng huống là tạo tượng tháp Phật như núi Tu Di, công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn được.

Nầy Ca Diếp !  Nếu có Bồ Tát quán Phật thân được thâm pháp nhẫn thì được công đức hơn kia vô lượng vô biên.  Nếu lại có người an trụ tịnh giới đem bốn câu kệ nói cho người khác hiểu được nghĩa thú cũng được phước đức vô lượng vô biên.

Nầy Ca Diếp !  Quán Phật thân thế nào ?  Nếu Bồ Tát muốn quán Phật thân thì nên học theo Đại Tinh Tấn Bồ Tát.

Thuở xưa vô số a tăng kỳ kiếp có Phật Thế Tôn hiệu Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.  Sau khi Phật Quang Minh nhập Niết bàn có Bồ Tát tên Đại Tinh Tấn dòng Bà La Môn đoan chánh vô tỉ.  Trong chánh pháp của Phật Quang Minh chư Tỳ Kheo thiểu dục tri túc hành đúng như pháp, chư Tỳ Kheo ấy đều tạo lập hình tượng Như Lai.

Bấy giờ có một Tỳ Kheo họa tượng Như Lai trên lụa trắng mầu sắc trang nghiêm đầy đủ tướng tốt rồi mang đến chỗ Đại Tinh Tấn Bồ Tát.  Thấy tượng ấy, Đại Tinh Tấn Bồ Tát rất vui mừng mà nói rằng : Hình tượng Như Lai còn đẹp lạ dường nầy huống là thân của đấng Như Lai Chánh Biến Tri.  Nguyện đời sau tôi được sắc thân nghiêm đẹp như vậy.  Đại Tinh Tấn Bồ Tát tự nghĩ rằng nay tôi không thể ở tại gia, vì người ở tại gia chẳng thể thành tựu thân như vậy.

Bấy giờ Đại Tinh Tấn Bồ Tát tuổi mới mười sáu đầy đủ các căn, Bồ Tát đến chỗ cha mẹ kính lễ thưa xin được tùy hỉ cho xuất gia trong Phật pháp.  Cha mẹ bảo : Chớ nói lời ấy.  Tại sao, vì nay chúng tôi tuổi già chỉ có con là trai duy nhứt, nếu con xuất gia, chúng ta sẽ chết mất.

Đại Tinh Tấn nói : Tôi phải phương tiện cho cha mẹ còn mà tôi được xuất gia.

Cha mẹ nói : Con muốn làm gì ?

Đại Tinh Tấn nói : Từ ngày nay tôi chẳng ăn, chẳng lên giường, ghế nằm ngồi, chẳng ăn tô du, chẳng uống các thứ nước, việc lành việc dữ miệng chẳng nói ra lời, đến chừng nào được xuất gia mới thôi.

Thưa với cha mẹ như vậy xong, Đại Tinh Tấn nín lặng và quỳ luôn tại chỗ.

Ngày thứ nhứt nín lặng chẳng ăn uống, cha mẹ tụng các chú thuật đem các thức ăn đến, Đại Tinh Tấn chẳng chịu ăn cũng chẳng nói.

Ngày thứ hai cha mẹ cùng quyến thuộc của mẹ năm trăm người đem các thức ăn uống đến và tụng các chú thuật mong chịu ăn, Đại Tinh Tấn còn không ngó đến huống là ăn uống.

Ngày thứ ba cha mẹ cùng năm trăm quyến thuộc của cha đem các thức ăn uống đến khuyên bảo, Đại Tinh Tấn cũng nín lặng chẳng ăn chẳng uống chẳng nhìn ngó đến.

Ngày thứ tư năm trăm bạn thân đem các thức uống ăn đến nài nỉ hết lời, Đại Tinh Tấn vẫn quỳ yên nín lặng.

Ngày thứ năm cha mẹ đem hết kho báu vàng bạc lưu ly bửu vật và tám vạn bốn ngàn thể nữ trang sức xinh đẹp đến trước Đại Tinh Tấn.  Cha mẹ và các bạn thân đều năm trăm người khuyên bảo rằng nên ở tại gia tùy ý dùng tất cả của cải ấy bố thí làm phước và cùng vui chung với các thể nữ.  Đại Tinh Tấn ở giữa đại chúng vẫn nín lặng chẳng ngó đến.

Ngày thứ sáu Đại Tinh Tấn dứt các sự nhớ tưởng chỉ niệm tưởng đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri.

Bấy giờ cha mẹ bạn thân cùng tám vạn bốn ngàn thể nữ đồng khóc than lễ Đại Tinh Tấn, mà Đại Tinh Tấn vẫn chẳng nhìn ngó đến.

Chỗ Đại Tinh Tấn ở có một Trạch thần hiện đại thần lực ở giữa hư không nói kệ rằng :

Lòng Tinh Tấn vững chắc

Khó động như Tu Di

Chẳng bỏ tâm xuất gia

Vì cầu được Bồ đề

Đại địa có thể nghiêng

Lửa có thể ở nước

Tất cả có thể chuyển

Chẳng động được Bồ Tát

Các người chớ cần khổ

Mà tạo nghiệp bất thiện

Chúng sanh không huệ nhãn

Lâu dài ở sanh tử

Vì lợi ích quần sanh

Nên cầu được Bồ đề

Lòng kia thích xuất gia

Tất sẽ thành Chánh Giác

Chẳng cầu phước thế gian

Mà tu Bồ Tát đạo

Nguyện thành trí vô thượng

Cứu tế chúng sanh khổ

Tam thiên Đại thiên giới

Trong ấy đầy châu báu

Cùng các cõi thượng diệu

Lòng kia chẳng tham trước

Các người tâm ngu si

Gây tạo nghiệp bất thiện

Các người phải tự hối

Bồ Tát chẳng ở tục.

Mọi người nghe lời bảo của thiên thần đều hối lỗi.  Cha mẹ bảo Đại Tinh Tấn rằng : Cho phép con tùy ý xuất gia, nên ăn uống chớ để phải chết.

Cả bảy ngày chẳng ăn uống mà Đại Tinh Tấn nhan sắc chẳng biến đổi trái lại còn tươi đẹp sáng sủa hơn, nội tâm chỉ nhứt tâm niệm tưởng thân của Như Lai Chánh Biến Tri.

Trên không chư Thiên tán hoa cúng dường.

Sau đó bảy ngày, Đại Tinh Tấn rời bỏ gia nghiệp như bỏ nước miếng, nước mũi.  Cha mẹ bạn thân quyến thuộc và tám vạn bốn ngàn thể nữ buồn khóc đưa đi.

Đại Tinh Tấn cầm bức lụa họa tượng Phật vào núi sâu nơi vắng vẻ không người và cầm thú rồi giăng treo tượng Phật lên, trải cỏ làm chỗ ngồi, kiết già đoan tọa trước tượng Phật chánh thân chánh niệm quán Phật.  Quán nghĩ rồi tự nghĩ rằng : Đức Như Lai hi hữu vi diệu như vậy, họa tượng còn đoan nghiêm thù thắng huống là thân hình của Như Lai.  Tôi phải quán Phật thế nào ?

Bấy giờ Lâm thần biết tâm niệm của Bồ Tát liền thưa rằng: Ngài muốn quán Phật thì nên quán họa tượng.  Quán họa tượng ấy chẳng khác Như Lai, đây gọi là quán Phật, cũng gọi là thiện quán.

Đại Tinh Tấn nghĩ rằng : Nay tôi quán họa tượng này đồng với Như Lai như thế nào ?

Rồi lại suy nghĩ : Tượng Phật phi giác phi tri, tất cả các pháp cũng vậy : phi giác phi tri.

Tượng Phật chỉ có danh tự, tất cả các pháp cũng như vậy : chỉ có danh tự.  Danh tự ấy tự tánh không tịch vô sở hữu, thân Như Lai cũng như vậy.

Tượng Phật ấy : phi chứng phi đắc phi quả, phi người chứng phi người đắc phi người đắc quả, phi người an trụ, phi khứ phi lai phi sanh phi diệt phi cấu phi tịnh, phi sắc phi phi sắc, phi hết tham phi hết sân phi hết si, phi ấm nhập giới, phi sơ phi trung phi hậu, tất cả các pháp cũng đều phi, thân Như Lai cũng như vậy.

Tượng Phật ấy phi giác tri phi tác vi, tất cả các pháp cũng như vậy, thân Như Lai cũng như vậy.

Tượng Phất ấy phi thấy phi nghe phi ngửi, phi nếm phi giác xúc, phi hay biết, phi thở phi hít, tất cả các pháp cũng như vậy. Thân Như Lai cũng như vậy.

Họa tượng ấy chẳng thuộc Dục, Sắc, Vô  Sắc giới, tất cả các pháp cũng như vậy.

Họa tượng ấy phi sơ trung hậu, phi thử bỉ, phi hành phi chẳng hành, phi thủ xả, phi tác phi tụng, phi thiệt hư, phi sanh tử Niết bàn, tất cả các pháp cũng vậy.  Thân tướng Như Lai cũng vậy.

Kiết già đoan tọa quán thân Như Lai như vậy trải ngày đêm Bồ Tát Đại Tinh Tấn thành tựu ngũ thần thông, đủ bốn vô lượng tâm, được vô ngại biện tài, nhập phổ quang tam muội hiện đại quang minh, thành tựu thiên nhãn quá hơn nhơn nhãn, dùng thiên nhãn ấy thấy Đông phương vô số chư Phật, được tịnh thiên nhĩ chỗ thuyết pháp của chư Phật Thế Tôn đều nghe nhận được cả.

Đại Tinh Tấn siêng tu tinh tấn mãn bảy ngày dùng trí làm món ăn chẳng ăn đồ thế gian, chư Thiên tán hoa cúng dường.  Lúc ấy Đại Tinh Tấn chẳng mặc ca sa chẳng thấy Phật chẳng thọ giới pháp chỉ nhứt tâm nhớ niệm Nhứt thiết trí.

Nầy Ca Diếp !  Bồ Tát phải quán thân Như Lai như vậy : phi quán phi chẳng quán.  Bồ Tát nên quán họa tượng Phật như Đại Tinh Tấn Bồ Tát đã quán.  Quán như vậy thành đại trí huệ.  Dùng trí huệ ấy thấy được hết vô số Phật mười phương và nghe chư Phật thuyết pháp.

Đại Tinh Tấn Bồ Tát ra khỏi núi đến xóm làng nói pháp cho mọi người.  Một hội thuyết pháp có hai vạn chúng sanh an trụ Vô thượng Bồ đề, vô lượng vô số chúng sanh an trụ công đức Thanh Văn Duyên Giác.  Cha mẹ và thân thuộc đều an trụ bất thối chuyển vô thượng đạo.

Nầy Ca Diếp !  Đại Tinh Tấn Bồ Tát thuở xưa ấy nay là thân ta. Vì thế nên Bồ Tát phải học theo Đại Tinh Tấn và chư đại Bồ Tát khác.

Đời mạt thế, năm trăm năm sau có các thiện nam tử thiện nữ nhơn cầu Bồ Tát đạo mà không có tâm phương tiện tốt, họ nhiều tham trước, ở nơi tường vách họ họa hình tượng Như Lai để cầu lợi dưỡng, họ nói riêng mình tôi cúng dường không ai cúng dường.  Do tu thiện chút ít rồi họ tự cao mạn khinh người, nhơn nơi cúng dường tượng Phật để tự sanh sống.

Nầy Ca Diếp !  Thuở vị lai ấy, chúng sanh chẳng tu tam muội, chẳng đọc tụng kinh chỉ lo cúng tượng để tự sanh sống, nhơn cúng tượng mà từ nơi thí chủ họ được nhiều lợi dưỡng : ăn uống y phục đồ nằm và thuốc men.

Nầy Ca Diếp !  Ông xem các Bồ Tát phá giới ấy an trụ bất tịnh mà tự xưng đa văn, họ chẳng tụng đọc kinh điển, chỉ nhơn cúng hình tượng để tự nuôi sống”.

Tôn giả Ma Ha Ca Diếp bạch rằng : “ĐấngThế Tôn hi hữu, đấng Thiện Thệ hi hữu, đức Như Lai nói rộng về lỗi siểm khúc của các phàm phu ngu si.  Nếu có thiện nam tử nữ nhơn được nghe lời nầy, chẳng ai là chẳng an trụ giới thanh tịnh.

Bạch đức Thế Tôn !  Nguyện pháp nầy ở lâu nơi đời vị lai cho người phá giới được nghe mà sanh lòng tàm quí vì họ sẽ tự nghĩ rằng đức Như Lai biết rõ tôi thấy rõ tôi, do đây mà tà pháp của họ làm sẽ được dứt hẳn”.

Đức Phật bảo : “Nầy Ca Diếp !  Lời nói của Như Lai đây là vì các thiện nam tử thiện nữ nhơn ấy, họ nghe pháp nầy của ta sẽ tu hành rời lìa tà ác.  Ta vì họ mà nói pháp như vậy”.

Đức Thế Tôn nói kinh nầy rồi, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp, Di Lặc Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tất cả thế gian Trời Người, Bát Bộ nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

 

PHÁP HỘI MA HA CA DIẾP 

THỨ HAI  MƯƠI BA

HẾT


Xem dưới dạng văn bản thuần túy