× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 22 PHÁP HỘI ĐẠI THẦN BIẾN THỨ HAI MƯƠI HAI

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ cấp Cô Độc câu hội cùng ngàn hai trăm năm mươi đại Tỳ Kheo và tám ngàn đại Bồ Tát.  Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát và Thương Chủ Thiên Tử đều ở trong pháp hội.

Bấy giờ Thương Chủ Thiên Tử tác lễ bạch Phật : “Bạch đức Thế Tôn!  Đức Như Lai thường dùng mấy thứ thần biến điều phục chúng sanh?”.

Đức Phật phán : “Nầy Thiên Tử!  Đức Như Lai dùng ba thứ thần biến điều phục chúng sanh : một là thuyết pháp, hai là giáo giới, ba la thần thông.

Thế nào gọi là Như Lai thuyết pháp thần biến?

Đức Như Lai dùng vô ngại đại trí thấy đời vị lai tất cả chúng sanh tâm hành họ sai biệt, đối với Tam bửu có tin hay không tin và nghiệp nhơn quả báo của họ đều thấy biết rõ.  Như đức Phật đã nói, nếu đời hiện tại họ tạo nhơn ác họ sẽ đọa ác đạo, theo nghiệp mà thọ báo quyết định không sai.  Nếu là chúng sanh có thiện nghiệp nhơn duyên thệ nguyện lực thì từ ác đạo ra sanh trong Trời Người hoặc do ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Đại Thừa mà được độ thoát.  Trải bao nhiêu kiếp thọ khổ thọ vui sẽ được Niết bàn, sẽ được gặp bao nhiêu Phật, các nghiệp như vậy quyết định không sai.  Hoặc là chúng sanh do thiện nghiệp nhơn duyên thệ nguyện lực sẽ sanh Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới trải bao nhiêu kiếp do ba thừa ấy mà được giải thoát.  Do công hạnh như vậy sẽ được thấy Phật kính thờ cúng dường.  Tất cả phẩm thượng trung hạ thiện nghiệp ác nghiệp như vậy, cho đến một niệm, đức Như Lai đều biết rõ rồi thuyết pháp cho họ.  Đây gọi là thuyết pháp thần biến.

Thế nào gọi là giáo giới thần biến?

Nầy Thiên Tử!  Hoặc dạy người trì giới như vầy : đây nên làm đây chẳng nên làm, đây nên tin đây chẳng nên tin, đây nên gần đây chẳng nên gần, pháp ấy tạp nhiễm pháp ấy thanh tịnh, nhẫn đến đây là pháp nhiếp thọ tất cả công đức, đây là tư lương thiện đạo, làm đạo như vậy được Thanh Văn thừa Bích Chi Phật thừa, làm đạo như vậy sẽ được Đại thừa, phải lìa phi pháp, phải trụ như pháp, như lời Phật dạy quyết định không sai, đây là nghiệp địa ngục, đây là nghiệp bàng sanh, đây là nghiệp ngạ quỷ, đây là nghiệp Nhơn Thiên, phải bỏ pháp ác, phải tu pháp thiện, đây là thánh đạo, phải học như vậy.  Những chúng sanh ấy qua lại cõi trời trong người lần vào Niết bàn.  Đức Phật thị giáo như vậy trọn chẳng luống qua, đây gọi là Như Lai giáo giới thần biến.

Thế nào gọi là thần thông thần biến?

Nếu vì điều phục chúng sanh kiêu mạn, hoặc hiện một thân làm nhiều thân, hoặc hiện nhiều thân làm một thân, nơi núi gộp tường vách xuất nhập vô ngại, trên thân xuất lửa dưới thân xuất nước, trên thân xuất nước dưới thân xuất lửa, vào đất như nước, đi trên nước như đất, lấy tay rờ xoa mặt nhựt mặt nguyệt, hoặc hiện thân lớn đến trời Phạm Thế, cho đến rộng lớn trùm khắp Tam thiên Đại thiên thế giới, tùy theo chỗ đáng mà hiện ra để điều phục chúng sanh.  Đây gọi là Như Lai thần thông thần biến”.

Thương Chủ Thiên Tử lại bạch rằng : “Như Lai còn có thần biến nào hơn đây chăng?”.

Đức Phật phán : “Nầy Thiên Tử!  Đức Như Lai còn có thù thắng thần biến”.

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát : “Này Văn Thù Sư Lợi!  Ông nên diễn nói thù thắng thần biến của Như Lai khiến chư Bồ Tát được thâm pháp nhẫn xô dẹp chúng ma, cũng làm cho pháp Bồ đề của Như Lai còn lâu ở thế gian”.

Văn Thù Sư Lợi bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Nếu đức Như Lai đem nước tứ đại hải nơi Tam thiên Đại thiên thế giới để trong lòng bàn tay mà chúng sanh thủy tộc không bị nhiễu động.  Thần biến này chưa là thù thắng.

Nếu đức Như Lai ở nơi tất cả pháp chẳng thể ngôn thuyết không danh không tướng không sắc không thanh không hành không tác, không văn tự không hí luận không biểu thị, rời tâm ý thức, dứt tất cả đường ngữ ngôn tịch tĩnh chiếu minh, mà dùng ngữ ngôn khai thị, tất cả thế gian đều chẳng hiểu biết được, Sa Môn Bà La Môn nghe đến kinh sợ.  Đây gọi là tối đại thần biến của chư Phật.

Lại nữa, nếu đức Như Lai đem Tam thiên Đại thiên thế giới nạp vào trong miệng, tứ thiên hạ không bị chướng ngại, ánh sáng nhựt nguyệt chẳng bị che khuất vẫn an ở như cũ, chúng sanh trong ấy cũng chẳng hay biết nơi chỗ dời đi.  Thần biến này chưa là thù thắng.

Nếu đức Như Lai ở nơi tất cả pháp chẳng thể nói được không văn tự nhẫn đến rời tâm ý thức dứt đường ngữ ngôn tịch tĩnh chiếu minh, mà dùng ngữ ngôn tuyên nói hiển thị.  Đây gọi là tối đại thần biến của chư Phật.

Lại nữa, thân bất cộng của Như Lai do nơi thần lực tùy theo chúng sanh thị hiện nhiều thứ thân đều làm cho họ vui mừng.  Thần biến này chưa là thù thắng.

Nếu đức Như Lai vô ngã nói ngã, không chúng sanh nói chúng sanh, không nhơn nói nhơn, không dưỡng dục nói dưỡng dục, không danh nói danh, không sắc thọ tưởng hành thức nói sắc thọ tưởng hành thức, không xứ nói xứ, không giới nói giới, dầu nói nhãn không mà nhãn chẳng nói không, dầu nói sắc không mà sắc chẳng nói không, nói nhãn thức không mà thức chẳng nói không, cho đến ý không pháp không và ý thức không cũng như vậy.  Như Lai nói pháp vô danh vô tướng vô động vô tri vô ngôn ấy dẹp dứt tất cả tướng sanh diệt.  Đây là Như Lai tối đại thần biến.

Thần biến ấy chẳng tương ưng với nhãn với sắc với nhãn thức, cho đến chẳng tương ưng với ý với pháp, với ý thức.

Thần biến ấy chẳng hiệp với thân tâm, vô hành vô tác, rời các cảnh giới, tất cả thế gian chẳng thể tin được.  Tại sao? Vì nói thế gian thì gọi là ngũ uẩn, nơi đây kẻ phàm phu vọng chấp trước, hoặc nói uẩn thường, hoặc nói uẩn vô thường.  Do nghĩa ấy mà thế gian vọng nói uẩn là thường rồi nghe nói vô thường thì chẳng tin, họ vọng thấy uẩn là lạc rồi nghe nói khổ thì chẳng tin, họ vọng thấy ngã rồi nghe nói vô ngã thì chẳng tin, họ vọng thấy tịnh rồi nghe nói bất tịnh thì chẳng tin, họ vọng thấy ngã sở rồi nghe nói không ngã sở thì không tin, họ vọng chấp ngũ uẩn thiệt rồi nghe nói chẳng thiệt thì chẳng tin.  Do đây nên thần biến của Như Lai ra khỏi tâm tướng người nghe chẳng ưa vui nên tất cả thế gian chẳng thể tin.

Lại nữa, vì siêu cảnh giới của nhãn căn chẳng phải là sắc pháp nên gọi thần biến, cho đến vì siêu ý cảnh giới chẳng phải là sắc pháp chẳng thể hiển thị chẳng phải chỗ biết của trí nên gọi là thần biến.

Lại nữa, không vô tướng vô nguyện chẳng thể nói mà nói không vô tướng vô nguyện đây gọi là thần biến.

Không khởi không tác không tánh không tướng không sanh không diệt bổn lai Niết bàn chẳng thể ngôn thuyết mà nói Niết bàn đây gọi là thần biến.

Lại nữa, vì bố thí thanh tịnh ba luân nên gọi là thần biến.  Đó là rời ngã tướng lìa chúng sanh tướng chẳng niệm Bồ đề vậy.

Trì giới thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì thân khẩu ý ba nghiệp vô sở tác vậy.

Nhẫn nhục thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì sát na hoại diệt không chỗ chấp trước vậy.

Tinh tấn thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì không khứ không lai thân tâm bất động vậy.

Thiền định thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì tâm không sở y trong ngoài tịch tĩnh như vậy.

Trí huệ thanh tịnh đây gọi là thần biến, vì chiếu sáng các pháp dứt tất cả kiến chấp vậy.

Lại nữa, pháp không tướng xuất mà nói pháp xuất ly đây gọi là thần biến.

Pháp không sai biệt mà phân biệt văn tự đây gọi là thần biến.

Pháp không sở hành mà nói có tu hành đây gọi là thần biến.

Pháp không lai khứ mà nói có lai khứ đây gọi là thần biến.

Ở nơi nhứt đạo chứng nhập mà kiến lập các quả vị đây gọi là thần biến.

Nơi pháp nhứt vị phân biệt ba thừa đây gọi là thần biến.

Tất cả chư Phật chỉ là một Phật nói vô lượng Phật đây gọi là thần biến.

Tất cả Phật độ chỉ một Phật độ nói vô lượng Phật độ đây gọi là thần biến.

Vô lượng chúng sanh tức một chúng sanh nói vô lượng chúng sanh đây gọi là thần biến.

Tất cả Phật pháp chỉ một Phật pháp nói vô lượng Phật pháp đây gọi là thần biến.

Pháp chẳng thể hiển thị, hiển thị các pháp đây gọi là thần biến.

Pháp vô sở đắc tu tập chứng nhập đây gọi là thần biến”.

Bấy giờ Thương Chủ Thiên Tử bạch Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát rằng : “Như chỗ tôi hiểu nghĩa được Ngài nói thì ở nơi tất cả pháp có bao nhiêu ngôn thuyết đều gọi là thần biến cả”.

Văn Thù Sư Lợi đại Bồ Tát nói : “Đúng như vậy, tất cả ngôn thuyết thiệt vô sở thuyết gọi là đại thần biến vậy”.

Lúc nói pháp trên đây, có một vạn hai ngàn Thiên Tử phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm trăm Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.

Tôn giả Xá Lợi Phất bảo Thương Chủ Thiên Tử : “Ông nghe đại thần biến ấy mà chẳng kinh sợ chăng?”.

Thương Chủ Thiên Tử nói : “Tôi tức là thần biến sao lại kinh sợ!”.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : “Có mật ý gì mà ông nói như vậy?”.

Thương Chủ Thiên Tử nói : “Tất cả các pháp hoặc thiện hoặc bất thiện không động mà động, đây gọi là đại thần biến.  Vì thế nên người tạo nghiệp lành sanh lên trời có oai đức lớn, nghiệp lành ấy chẳng thể nghĩ bàn, tất cả chúng sanh qua lại sanh tử cũng chẳng thể nghĩ bàn, đây gọi là đại thần biến.

Như đức Phật nói bốn thứ cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn : một là nghiệp cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, hai là long cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, ba là thiền cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn và bốn là Phật cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn, do nghĩa này mà nói tất cả pháp gọi là đại thần biến chẳng nên kinh sợ.

Thưa Tôn giả Xá Lợi Phất! Nếu đức Như Lai nói đại thần biến ấy, hư không giới chừng có sợ chăng?”.

Tôn giả đáp : “Không có”.

Thiên Tử nói : “Nếu hư không chẳng kinh sợ sao ngài lại hỏi ông có kinh sợ chăng?”.

Tôn giả nói : “Ông há lại đồng như hư không ư?”.

Thiên Tử nói : “Như đức Phật nói hoặc nội không ngoại không có phải là hư không chăng?”.

Tôn giả nói : “Đúng vậy”.

Thiên Tử nói : “Vì thế nên tất cả chúng sanh là tánh hư không”.

Tôn giả nói : “Nầy Thiên Tử! Như lời ông nói, chẳng bao lâu ông cũng sẽ hiện thần biến như vậy.  Tại sao? Vì siêu quá tất cả cảnh giới là đại thần biến vậy”.

 Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch Phật : “Bạch đức Thế Tôn!  Thương Chủ Thiên Tử đây từ xưa đã cúng dường chư Phật Thế Tôn và Văn Thù Sư Lợi nên mới thành tựu biện tài như vậy”.

Đức Phật bảo Tôn giả : “Nầy Xá Lợi Phất!  Đúng như vậy, như lời ông nói.  Đó là do Văn Thù Sư Lợi làm cho thành thục.

Nầy Xá Lợi Phất! Thuở quá khứ vô lượng kiếp có đức Phật hiệu Đẳng Tu Di Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất hiện thế gian, nước tên An Lạc, kiếp tên Hoan Hỉ, tất cả chúng sanh nước ấy đều đầy đủ an vui cho đến không có chút tiếng khổ não.  Nước ấy bằng bốn báu kim ngân lưu ly và pha lê, đất bằng như bàn tay, sạch sẽ dịu mềm như thiên y, không chỗ tai nạn, trời người sung mãn an ổn đông nhiều khoái lạc vô lượng, do đó mà gọi là thế giới An Lạc.  Trong pháp của đức Phật Đẳng Tu Di ấy thuần là Bồ Tát tinh tấn dũng mãnh trí huệ sáng suốt, được tu đa la vương đà la ni, biện tài vô tận, thiện xảo phương tiện phân biệt thuyết pháp, thần thông trí huệ xô dẹp ma oán, giải thoát vô ngại thành tựu đỉnh nhẫn, khéo biết căn tánh đúng bịnh cho thuốc, đủ phước đức trí huệ tư lương lớn, làm bạn bất thỉnh của các chúng sanh, dùng sức thần thông đi khắp các quốc độ chư Phật, vào biển trí hành an trụ thí giới trí huệ đa văn, vô biên thiện căn phương tiện hồi hướng, trụ nơi thập lực vô úy tất cả Phật pháp, du hí tam muội các thiền giải thoát.  Đức Phật Thế Tôn ấy dùng chư đại Bồ Tát như vậy làm quyến thuộc.

Nơi nước An Lạc ấy, bấy giờ có Chuyển Luân Vương tên Tịnh Trang Nghiêm dùng chánh pháp trị đời lãnh bốn thiên hạ có đủ bảy báu.  Vua ấy có ngàn con trai đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.  Vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung cũng đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Đức Đẳng Tu Di Như Lai thọ bảy mươi câu chi tuổi.

Trong trăm ngàn năm kính thờ cúng dường đức Phật Đẳng Tu Di và chúng Bồ Tát những đồ ăn uống y phục đồ cần dùng.  Nhà vua cùng ngàn con trai và tất cả hậu cung đều được thanh tịnh tín yêu chánh pháp vui mừng chẳng còn có dị tâm, thường ở trước đức Phật ấy tự tay cúng dường thân cận nghe pháp.  Quá trăm ngàn năm rồi, ngàn Vương tử và hậu cung được thành tựu bốn chánh niệm : một là niệm Phật và Bồ Tát, hai là niệm thí, ba là niệm giới, bốn là chẳng quên tâm Bồ đề.  Vì được bốn chánh niệm nên ngày đêm đều thường thấy Phật và chư Bồ Tát.

Thời gian sau, một hôm nhơn nghe pháp, nhà vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung đến chỗ Phật.

Đức Đẳng Tu Di Như Lai muốn giáo hóa chư Bồ Tất nên ở giữa đại chúng hiện các thứ thần biến.

Vua Tịnh Trang Nghiêm bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Có thần biến nào hơn đây chăng?

Đức Đẳng Tu Di Như Lai nói :

Nầy Đại Vương! Đức Như Lai còn có thù thắng thần biến.  Đó là biết rõ quá khứ đã diệt, hiện tại chẳng trụ, vị lai chưa sanh không có tâm sở mà nói pháp tâm và tâm sở ba đời.  Trong pháp nhứt vị nói ba giải thoát.  Nơi một diệt chứng nói bốn thánh đế, khai thị không vô tướng vô nguyện thành tựu chúng sanh điên đảo khổ não, nói vô tướng vô vi thành tựu Bồ đề.  Nơi chẳng thủ chẳng xả nói Bố thí Ba la mật.  Nơi vô trụ vô tác nói trì giới Ba la mật.  Nơi không ngã không pháp nói Nhẫn nhục Ba la mật.  Thân tâm tịch tĩnh nói Tinh tấn Ba la mật.  Chẳng loạn chẳng nhiếp nói Thiền Ba la mật.  Rời lìa bờ đây bờ kia nói Bát Nhã Ba la mật.  Không chỗ động niệm mà thật hành phương tiện.  Rời tướng nương nhờ mà tu tập tâm từ.  Dùng pháp vô tác mà tu tập tâm bi.  Vì lìa mừng vui mà tu tập đức hỉ.  Do pháp bất trụ mà tu đức xả.  Vì không chỗ thấy mà khởi thiên nhãn.  Vì không chỗ nghe mà khởi thiên nhĩ.  Không chỗ phan duyên mà khởi tha tâm trí.  Rời lìa tiền tế mà khởi trí túc mạng.  Thân tâm bất động mà khởi thần túc.  Chẳng trụ các pháp mà tu niệm xứ.  Vì không sanh diệt tu bốn chánh cần.  Chẳng phải căn nói căn, chẳng phải lực nói lực.  Các pháp tịch tĩnh nói Bồ đề phần.  Các pháp vô sai biệt nói tám thánh đạo.  Chẳng trụ tịch tĩnh mà tu xa ma tha.  Viễn ly pháp tướng mà tu tì bát xá na.  Bổn lai tịch diệt mà nói Niết bàn.

Lúc đức Phật Đẳng Tu Di vì vua Tịnh Trang Nghiêm và hậu cung nói pháp thần biến ấy, có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ đề.  Vua Tịnh Trang Nghiêm và ngàn Vương Tử chứng vô sanh pháp nhẫn rồi do thần lực của Phật liền ở trước Phật nói kệ tán thán :

Như núi Tu Di

Chói sáng đại hải

Oai quang của Phật

Chói che đại chúng

Như mặt nhựt mọc

Phá tất cả tối

Hào tướng của Phật

Chiếu khắp thế giới

Như mặt nguyệt tròn

Ánh sáng rực rỡ

Phật công đức đầy

Huệ quang chiếu khắp

Ví như hoa sen

Chẳng dính bùn nước

Phật ở tại đời

Không hề nhiễm trước

Như sư tử chúa

Gầm nơi rừng sâu

Đấng đại Pháp Vương

Rống nơi tánh không

Nơi tất cả pháp

Phi hữu phi vô

Khiến rời biên kiến

Gọi sư tử hống

Nơi tất cả tướng

Hoặc sanh hoặc diệt

Nói không sanh diệt

Gọi sư tử hống

Phân biệt bờ đây

Hoặc dạy bờ kia

Chẳng trụ các pháp

Gọi sư tử hống

Phân biệt hai tướng

Là nhiễm là tịnh

Các pháp thanh tịnh

Gọi sư tử hống

Tham sân si hành

Từ phân biệt sanh

Chẳng khởi phân biệt

Gọi sư tử hống

Nơi pháp sanh tử

Vô thường vô ngã

Từ điên đảo khởi

Gọi sư tử hống

Sanh tử Niết bàn

Bổn lai tịch tĩnh

Là đại Bồ đề

Gọi sư tử hống

Bị kiến chấp trói

Lưu chuyển thế gian

Khai thị tánh không

Gọi sư tử hống

Như Lai Đại Sư

Hiện những thần biến

Đều hay khai thị

Gọi sư tử hống

Nơi tất cả trái thuận

Tâm ấy chẳng khuynh động

Thường an trụ bình đẳng

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Tùy thuận pháp thâm tịch

Của đức Phật từng dạy

Cũng chẳng chứng trong ấy

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Lìa xa các lỗi ác

Tăng trưởng các pháp lành

Trong ấy chẳng chấp trước

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Nói tiếng các pháp không

Nói tiếng tất cả kiến

Hai thứ đều không chấp

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Tiếng vô biên Phật pháp

Tiếng các thứ phiền não

Chẳng phân biệt nơi tiếng

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Nơi thí, giới, nhẫn nhục

Tinh tấn và định huệ

Mà tu hành như pháp

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Chẳng bỏ tâm Bồ đề

Bình đẳng quán tất cả

Thanh tịnh đạo Bồ đề

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Như Lai tự ý nói

Khai thị các Phật pháp

Nghe pháp không nghi hoặc

Gọi tùy thuận pháp nhẫn

Nếu tôi chứng Bồ đề

Sẽ đại sư tử hống

Diễn nói thần biến này

Như Phật nay đã nói

Nơi ruộng phước vô thượng

Chẳng thể nghĩ bàn này

Tôi đã gieo hạt giống

Trọn không hề thối chuyển

Giả sử đại địa rã

Biển lớn đều khô cạn

Căn lành tôi đã trồng

Vĩnh viễn không thối thất

Biết rõ tâm chúng sanh

Tánh nó như hư không

Trồng sâu giống Bồ đề

Được phước đức vô biên

Chí nguyện tôi hôm nay

Chỉ đức Phật chứng biết

Trời, Người, Càn Thát Bà

Không ai có thể biết

Nay tôi trọn chẳng cầu

Báo chư Thiên thắng diệu

Tôi sẽ được trí huệ

Như đức Phật Thế Tôn

Tôi trong trăm ngàn năm

Thân cận cúng dường Phật

Vì phát nguyện Bồ đề

Tu vô biên hạnh này

Nay tôi và ngàn con

Các quyến thuộc hậu cung

Nguyện thường cúng dường Phật

Để thành thục Bồ đề

Nay tôi được thiện lợi

Được thấy rõ chư Phật

Được nghe diệu pháp này

Ưa thích đạo Bồ đề

Nếu ưa thích Bồ đề

Thì là thích ưa pháp

Vì thương xót chúng sanh

Nên chẳng bỏ Phật thừa.

Bấy giờ trong chúng có Bồ Tát tên Pháp Tốc Tật nói với vua Tịnh Trang Nghiêm rằng :

Nầy Đại Vương!  Nhà vua chẳng tùy thuận thần biến của Như Lai cũng chẳng phải phát xu Vô thượng Bồ đề.  Tại sao?  Nầy Đại Vương!  Bồ đề ấy an trụ nơi pháp giới chẳng đến chẳng đi không tri không hành chẳng phải sắc chẳng phải tướng chẳng phải thủ chẳng phải bỏ, như họa vẽ trong hư không, không có chạm đụng, bổn tánh thanh tịnh.


 

417

Nầy Đại Vương!  Bồ đề ấy vào tất cả chỗ vì các pháp bình đẳng vậy.  Bồ đề ấy không phân biệt vì rời các tướng vậy.  Bồ đề ấy tịch tĩnh vì ngăn dứt các tướng vậy.  Bồ đề ấy tánh thanh tịnh vì rời chấp trước vậy.  Bồ đề ấy bất động vì không tạp loạn vậy.  Bồ đề ấy gọi là tâm bình đẳng vì không chỗ khởi lên vậy.  Bồ đề ấy gọi là chúng sanh bình đẳng vì bổn vô sanh vậy.  Bồ đề ấy gọi là bất sanh sanh vì duyên khởi vô tánh vậy.  Bồ đề ấy chẳng thể hiển thị vì rời tâm ý thức vậy.

Nầy Đại Vương!  Bồ đề ấy vô sở hành vì quá các cảnh giới vậy.  Bồ đề ấy vô hí luận vì rời tướng tầm tư vậy.  Bồ đề ấy là không vì tánh tướng không vậy.  Bồ đề ấy vô tướng vì rời tất cả tướng vậy.  Bồ đề ấy vô nguyện vì vô sở trụ vậy.  Bồ đề ấy vô tác vì không nghiệp báo vậy.  Bồ đề ấy vô vi vì rời ba tướng vậy.

Nầy Đại Vương!  Bồ đề ấy tánh tướng như vậy.  Nếu ở nơi pháp ấy mà có chỗ nguyện cầu thì luống tự nhọc nhằn vô ích.  Tại sao?  Vì đúng như tánh Bồ đề ấy, Bồ Tát phải nên thật hành.  Có thể thật hành như vậy thì gọi là chánh hạnh.

Vua Tịnh Trang Nghiêm bạch Bồ Tát Pháp Tốc Tật xin chỉ dạy chánh hạnh của Bồ Tát.

Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói :

Nầy Đại Vương!  Xả bỏ các sở hữu là chánh hạnh của Bồ Tát vì chúng sanh bình đẳng không phân biệt vậy.  Đầu đà học giới là chánh hạnh của Bồ Tát vì giới tánh bình đẳng vô sở hành vậy.  Rời sân nhiệt não là chánh hạnh của Bồ Tát vì nhẫn tánh bình đẳng không có tâm tướng vậy.  Kiên cố dũng mãnh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tinh tấn bình đẳng rời tâm hành vậy.  Tam muội giải thoát là chánh hạnh của Bồ Tát thiền định bình đẳng không sở duyên vậy.  Văn huệ tư lương là chánh hạnh của Bồ Tát vì huệ tánh bình đẳng không sở niệm vậy.  Sanh nơi phạm trụ là chánh hạnh của Bồ Tát vì nhiễm tịnh bình đẳng rời cả hai vậy.  Khởi các thần thông là chánh hạnh của Bồ Tát vì thần thông bình đẳng chẳng sanh niệm vậy.  Đầy đủ biện tài là chánh hạnh của Bồ Tát vì pháp nghĩa bình đẳng rời tâm tướng vậy.  Thành tựu thắng giải là chánh hạnh của Bồ Tát vì pháp giới bình đẳng vô sở động vậy.  Tu thất giác phần là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán chiếu bình đẳng chẳng giải đãi vậy.  Khởi tứ nhiếp pháp là chánh hạnh của Bồ Tát vì các pháp bình đẳng đồng sự việc vậy.  Tâm bình đẳng đối với chúng sanh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tâm tánh bình đẳng vô phân biệt vậy.  Trang nghiêm Phật độ là chánh hạnh của Bồ Tát vì thanh tịnh bình đẳng như hư không vậy.  Ba mươi hai tướng là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán pháp vô tướng nhập vào bình đẳng vậy.  Thanh tịnh thân khẩu ý là chánh hạnh của Bồ Tát vì rời ba nghiệp tánh bình đẳng vậy.  Tùy hỉ chúng sanh là chánh hạnh của Bồ Tát vì tất cả chúng sanh bình đẳng vô ngã vậy.  Chẳng chán sanh tử là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết rõ như mộng tánh bình đẳng vậy.  Thường tu nghiệp lành là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết nghiệp bình đẳng không nghiệp báo vậy.  Kiên cố tu hành là chánh hạnh của Bồ Tát vì quán tất cả pháp như ảo hóa vậy.  An nhẫn các sự khổ là chánh hạnh của Bồ Tát vì biết rõ bình đẳng khổ chẳng sanh vậy.  Thân cận thiện hữu là chánh hạnh của Bồ Tát vì nơi bạn chẳng phải bạn tâm bình đẳng vậy.  Siêng tu thâm tâm là chánh hạnh của Bồ Tát vì quả báo bình đẳng vô sở cầu vậy.  Đa văn không chán là chánh hạnh của Bồ Tát vì thuyết pháp thính pháp đều bình đẳng vậy.  Chẳng xen lẫn pháp là chánh hạnh của Bồ Tát vì bình đẳng thuyết pháp chẳng mong cầu vậy.  Nhiếp thọ chánh pháp là chánh hạnh của Bồ Tát vì bình đẳng thành thục các Phật pháp vậy.  Thường cầu thiệt trí là chánh hạnh của Bồ Tát vì đệ nhứt nghĩa đế tánh bình đẳng vậy.  Tâm mình khiêm hạ là chánh hạnh của Bồ Tát vì tâm bình đẳng khiêm hạ đối với chúng sanh vậy.  Nhiếp khắp tất cả các công đức lành là chánh hạnh của Bồ Tát vì công đức bình đẳng vô sở niệm vậy. 

Vua Tịnh Trang Nghiêm nghe nói chánh hạnh của Bồ Tát như vậy, nhà vua rất vui mừng hớn hở sanh lòng ưa thích liền cởi y phục và đồ nghiêm sức trên thân dâng cho Bồ Tát Pháp Tốc Tật.  Ngàn Vương Tử cũng cởi đồ nghiêm sức trên thân dâng Bồ Tát Pháp Tốc Tật và đồng nói rằng : Nguyện tất cả chúng sanh thành Bồ Tát hạnh được biện tài ấy.  Nay chúng tôi rất sung sướng được lợi ích lành là được thấy bực thiện tri thức này để cung kính cúng dường.

Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói  với vua Tịnh Trang Nghiêm :

Chỗ cúng dường của nhà vua rất hạ liệt, nên biết lại có sự cúng dường thù thắng.

Pháp Tốc Tật Bồ Tát nói kệ rằng :

Chúng sanh khắp Đại Thiên

Đều phát xu Bồ đề

Giả sử trọn một kiếp

Đem nam nữ bố thí

Nếu người phát đạo tâm

Tịnh tín mà xuất gia

Theo Phật để tu học

Phước nầy hơn phước kia

Chư Phật thuở quá khứ

Tất cả Phật vị lai

Không ai chẳng xuất gia

Mà được thành Phật đạo

Tất cả Phật tam thế

Đều khen pháp xuất gia

Nếu thích cúng dường Phật

Nên theo Phật xuất gia

Dầu đầy hằng sa cõi

Trân bửu dâng cúng Phật

Chẳng bằng trong một ngày

Xuất gia tu tịch tĩnh

Người này gần Bồ đề

Xô dẹp quân chúng ma

Xuất gia chẳng phóng dật

Pháp lành luôn tăng trưởng

Chẳng hư các căn lành

Rời xa các phiền não

Bỏ gia nghiệp phiền lụy

Thuận đạo được thánh khen

Xuất gia rời phiền não

Trừ não rời ma nghiệp

Tâm giải hành không nhiễm

Chẳng lâu chứng Bồ đề.

Nghe kệ xong lòng vua đối với vương vị tự tại tất cả ái dục thảy đều rời bỏ liền bạch Phật rằng :

Bạch đức Thế Tôn! Tôi nguyện ở trong luật pháp lành của Phật xuất gia thọ giới.

Đức Đẳng Tu Di Như Lai bảo rằng :

Nầy Đại Vương!  Xuất gia không họa hoạn mà ta thường khuyên gắng, mến luyến ở nhà chẳng phải là điều mà Phật hứa khả.  Ở nơi vương vị nhà vua còn ái trước ta sẽ dạy nhà vua an trụ như pháp.

Vua Tịnh Trang Nghiêm bảo Ngàn Vương Tử trong các con ai có thể nối giữ vương nghiệp?

Các Vương Tử đều nói chúng tôi thích xuất gia xin vua cha cho phép.

Vua bảo nếu các con xuất gia cả thời nhơn dân quốc độ bốn thiên hạ nầy lấy ai dưỡng dục.  Nếu trong các con người nào đại bi vững chắc nên ra làm vua khiến tất cả chúng sanh an trụ pháp lành.

Tron ngàn Vương Tử có một vị tên Niệm Đại Bi nói kệ đáp lời phụ vương :

Phụ vương nơi Phật pháp

Được nhiều công đức lành

Tôi xin lãnh ngôi vua

Cũng sẽ học như vậy

Tôi thường tu phạm hạnh

Trọn đời giữ tám giới

Tôi sẽ chẳng uống rượu

Chẳng thoa đeo hương hoa

Thân bỏ đồ trang sức

Chẳng ngồi nằm tòa vàng

Chưn chẳng mang giầy vàng

Đầu chẳng đội mão báu

Chẳng mặc y phục đẹp

Chẳng xem những kỹ nhạc

Chẳng ngắm điểu thú lạ

Chẳng gần các cung nữ

Tuần khắp bốn thiên hạ

Tuyên hành mười đạo lành

Quở trách lỗi tại gia

Khen ngợi pháp xuất gia

Bỏ tự tại kiêu ngạo

Thân cận Phật Pháp Tăng

Chẳng bỏ tâm Bồ đề

Thường nhàm chán ba cõi

Dùng thí ái lợi hành

Đồng sự nhiếp chúng sanh

Khắp khiến ở Đại thừa

Đều sẽ được thành thục

Ngày đêm cả sáu thời

Sẽ qua đến chỗ Phật

Để được nghe chánh pháp

Cúng dường đức Như Lai.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy