× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 18 PHÁP HỘI HỘ QUỐC BỒ TÁT THỨ MƯỜI TÁM

Như  vậy tôi nghe một lúc đức Bà Già Bà ở tại thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật, cùng câu hội với hai trăm năm mươi chúng đại Tỳ Kheo.

Năm ngàn Đại Bồ Tát, tất cả đều được biện tài vô ngại thành tựu đại trí nhẫn hàng phục ma oán gần Phật trí, bực nhứt sanh bổ xứ đều được sức tổng trì vô biên biện tài vô sở uý thần thông tự tại, nhẫn  đến đều đầy đủ tất cả công đức.  Danh hiệu của các Ngài là:  Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Minh Bồ Tát, Phổ Quang Bồ Tát, Viên Quang Bồ Tát, Thượng Ý Bồ Tát, Vô Biên Ý Bồ Tát, Quảng Ý Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Trì Thế Bồ Tát, Ích Ý Bồ Tát, Trú Thủ Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi và sáu mươi bất tư nghì Bồ Tát, Hiền Hộ và mười sáu Bồ Tát.  Năm ngàn đại Bồ Tát nầy đồng cầu hội.   

Lại có chúa cõi Ta Bà Đại Phạm Thiên Vương và Thích Đế Hoàn Nhơn cùng hộ thế Tứ Thiên Vương, Công Đức Thiên Tử, Chánh Ý Thiên Tử, tất cả Thiên Vương, tất cả Long Vương, tất cả Khẩn Na La Vương, tất cả Càn Thát Bà Vương, tất cả Dạ Xoa Vương, tất cả A Tu La Vương, tất cả Ca Lâu La Vương, các Vương ấy đều cùng trăm ngàn quyến thuộc đều đến hội họp.

Bấy giờ đức Thế Tôn ngồi tòa sư tử báu công đức tạng.  Đức Phật ở giữa đại chúng thân sắc hiển hiện như núi Tu Di, chiếu khắp thế gian nhưThiên Vương, oai đức gồm nhiếp như Thiên Đế Thích, bảy phần Bồ Đề đều đầy đủ như Chuyển Luân Vương, tuyên nói pháp không vô tướng vô nguyện không e sợ như sư tử chúa, ánh sáng nơi thân chói rực như khối lửa lớn, lại phóng tia sáng như bửu châu ma ni vô thượng tối thắng cõi trời chiếu khắp Tam Thiên Đại Thiên thế giới, dùng phạm âm to lớn khiến các chúng sanh đều hoan hỉ, nơi tất cả pháp hiểu rõ thâm nghĩa, ở giữa đại chúng vì họ thuyết pháp trước giữa sau đều lành, nghĩa ấy vi diệu đầy đủ không tạp, phạm hạnh thanh tịnh.

Lúc ấy có đại Bồ Tát tên Hỉ Vương ngồi trong đại chúng thấy đức Như Lai ngồi tòa sư tử ở giữa đại chúng phóng ánh sáng to lớn như trăm ngàn mặt nhựt chiếu khắp tất cả khiến ánh sáng cõi người cõi trời bị che luốt chẳng hiện.  Đại Bồ Tát Hỉ Vương thấy sự ấy rồi vui mừng hớn hở tràn đầy thân tâm chẳng tự xiết, Ngài liền đứng dậy chắp tay hướng Phật nói kệ tán thán :

“Thế Tôn che trùm đại chúng nầy

Thiên Long Tu La Càn Thát Bà

Bồ Tát Thanh Văn không oai đức

Chiếu khắp tất cả như núi vàng

Dường núi Tu Di cùng chư Thiên

Đứng giữa đại hải Phật cũng vậy

Thế Tôn đ ứng giữa biển từ bi

Phóng trăm ngàn thứ ánh sáng lớn

Trụ nơi phạm hạnh như Phạm Vương

Quang minh oai đức hơn chư Thiên

An trụ trong thiền định giải thoát

Chiếu sáng thế gian hơn chúng sanh

Dường Thiên Đế Thích tại chư Thiên

Thân sắc quang minh hơn tất cả

Phật hơn thế gian cũng như vậy

Các tướng trang  nghiêm đủ công đức

Như Chuyển Luân Vương trị bốn cõi

Soi sáng thế gian lúc thuyết pháp

Khiến các chúng sanh vào thánh đạo

Thế Tôn hiển hiện tâm từ bi

Ánh sáng chiếu luốt lửa ma ni

Như mặt nhựt giữa hư không tạnh

Sánh ngàn mặt nhựt Phật vẫn hơn

Phật nhựt chiếu khắp các thế gian

Như lúc đêm trong trăng tròn sáng

Phật quang thanh tịnh cũng như vậy

Gương mặt tròn đầy như mặt nguyệt

Che mờ tất cả sáng Trời Người

Như khối lửa lớn trên đảnh núi

Thanh tịnh soi sáng vô biên cõi

Hay diệt tất cả tối vô minh

Thế Tôn trí huệ sáng chiếu khắp

Tiếng Phật đầy khắp trong sơn cốc

Hay phục ngoại đạo như sư tử

Tuyên nói vô ngã không vô nguyện

Khiến các ngoại đạo đều kinh sợ

Oai quang dường như ma ni vương

Sáng che tất cả ngọc ma ni

Thân thể Như Lai màu hoàng kim

Chiếu khắp thế gian hơn tất cả

Thế gian không ai ngang bằng Phật

Huống là có người hơn Phật được

Những phước trí tinh tiến phương tiện

Tất cả công đức không ai hơn

Đấng trượng phu cứu hộ thế gian

Nay tôi nhìn thấy biển công đức

Nay tôi hoan hỉ sanh tôn trọng

Thế nên đảnh lễ chưn Thế Tôn

Tôi đã ca ngợi đấng Điều Ngự

Đèn sáng thế gian công đức tròn

Nay tôi có bao nhiêu công đức

Khiến các chúng sanh chứng Chánh Giác”.

 

Hỉ Vương đại Bồ Tát nói kệ tán thán đức Phật xong, Ngài chắp tay chăm nhìn thân đức Phật mắt chẳng tạm rời, Ngài quan sát pháp giới thậm thâm khó hiểu khó làm khó vào, là pháp vi tế tịch tịnh khó biết chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể suy lường, là cảnh giới chư Phật, trong nội tâm quan sát cùng khắp pháp giới, quan sát trí Như Lai cảnh giới của Thế Tôn không ai ngang bằng.  Quan sát như thế rồi, Ngài nhập vào trong phương tiện hạnh Như Lai trí bất tư nghị cảnh, chư Phật Thế Tôn không hề nhiễm trước dường như hư không.  Lúc Ngài quan sát như vậy, Ngài chứng nhập chơn như pháp tánh, tất cả các pháp tánh đều như vậy, sanh đức tin như vậy, ưa thích pháp môn vô ngại giải thoát của chư Phật Như Lai, biết bốn đức thường lạc ngã tịnh, biết thân của Phật, suy gẫm thân Như Lai khắp tất cả cõi hiện ra trước chúng sanh, công đức của Phật dầu trong vô lượng kiếp nói cũng chẳng hết.

Hỉ Vương đại Bồ Tát suy gẫm như vậy rồi ngồi yên lặng quan sát pháp giới.

Bấy giờ có một Huệ Mạng Tỳ Kheo Bồ Tát tên Hộ Quốc ở tại thành Xá Bà Đề vào hạ an cư quá ba tháng xong, cầm mang y bát cùng các sơ học Tỳ Kheo trẻ du hành các nước lần đến thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật, đến trước Đức Thế Tôn  đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía chắp tay hướng lên đức Phật mà nói kệ tán thán rằng :

 

“Kính lễ đấng Tối Thắng phóng quang

Kính lễ đấng tâm như hư không

Kính lễ hay quyết nghi cho người

Kính lễ đấng siêu việt tam giới

Trong vô số cõi nước mười phương

Nghe khen sự công đức của Phật

Nước ấy có bao nhiêu Bồ Tát

Đều đến hoan hỉ cúng dường Phật

Bồ Tát đúng pháp cúng dường rồi

Nhứt tâm nghe pháp của Phật nói

Nghe pháp vui vẻ về bổn quốc

Tán thán các công đức Như Lai

Xưa Phật tu hành vì chúng sanh

Trải qua vô lượng vô biên kiếp

Lúc Phật vì người cầu Bồ Đề

Tâm Phật không hề có chán mỏi

Thế Tôn bố thí vững trì giới

Nhẫn nhục tinh tấn nhập thiền định

Trí huệ phương tiện đều đầy đủ

Do đó tôi lậy đấng Đại Thánh

Như Lai đầy đủ bốn như ý

Các căn các lực các giải thoát

Phật rõ tâm ý thức chúng sanh

Do đó tôi lậy biển đại trí

Phật biết ý niệm của chúng sanh

Thân khẩu họ tạo nghiệp thiện ác

Cũng rõ các giải thoát phương tiện

Đức Phật biết rồi thuyết pháp dạy

Tham sân si mê hoặc chúng sanh

Khiến họ sa vào ba ác đạo

Đức Phật biết rồi bảo dứt trừ

Khiến chúng sanh ấy sanh cõi lành

Quá khứ tất cả các Thế Tôn

Được Trời Người Ma Phạm cung kính

Đấng đầy đủ công đức vị lai

Thế Tôn đều biết rất rõ ràng

Chư Phật tịnh độ chỗ được sanh

Bồ Tát Thanh Văn và Duyên Giác

Trời Người quyến thuộc và chủng tánh

Thọ mạng dài ngắn Phật đều biết

Sau khi diệt độ chánh pháp trụ

Cúng dường Xá lợi xây tháp miếu

Người thọ pháp tạng bao nhiêu hạng

Điều Ngự Trượng Phu đều biết rõ

Mười trí lực Phật không chướng ngại

Hay thấu rõ suốt việc tam thế

Vào trong tất cả chư pháp trí

Do đó tôi lậy biển đại trí

Không ai ngang bằng huống hơn Phật

Các tướng trang nghiêm thân Như Lai

Ví như tinh tú tại hư không

Do đó tôi lạy đấng Tối Thắng

Thân Phật diệu sắc không sánh bằng

Chói che ánh sáng cả đại hội

Oai đức Thích Phạm ở bên Phật

Tất cả che mất đầu chẳng hiện

Thân như núi vàng không bụi dơ

Tóc biếc mịn mềm xoắn phía hữu

Đỉnh Phật lộ rõ như Tu Di

Khối quang minh vô lượng công đức

Lông trắng giữa mày phóng sáng lớn

Vô lượng vô biên và vô số

Mắt Phật rộng dài như sen xanh

Nhìn chúng sanh với từ bi lớn

Như vầng trăng thu tròn giữa trời

Diện bộ của Phật cũng như vậy

Chúng sanh nhìn ngắm không chán đủ

Do đó tôi lạy vua mặt đẹp

Dường như sư tử công ngỗng chúa

Bước chậm đi an như tượng vương

Đi đứng chấn động cả trời đất

Kính lạy Thập Lực rất khổ hạnh

Ngón tay tròn vót ai cũng yêu

Màn da màu san hô đồng đỏ

Cánh tay thẳng dài thòng quá gối

Đảnh lễ Như Lai thân vàng chói

Luân tướng dưới chưn màn lưới đủ

Lúc đi dấu chưn như tranh vẽ

Nếu người đảnh lễ đức Thế Tôn

Phật quang chiếu sáng được sanh thiên

Pháp Vương có đủ bảy Thánh tài

Thường dùng pháp thí điều phục tâm

Đem pháp hành dạy bảo chúng sanh

Nay tôi đảnh lễ đấng Pháp Vương

Từ bi làm giáp niệm làm sức

Cung cứng trì giới tên trí huệ

Dùng đây phá được giặc phiền não

Phá ái sanh tử thêm giống Phật

Tự độ cũng độ ức chúng sanh

Giải thoát tất cả các chói buộc

 Chỉ rõ con đường an vô úy

Khiến họ đến đường thường an lạc

Hành nơi thừa này dứt sanh tử

Không có ân ái khổ biệt ly

Được đến chỗ vi vi diệu

Từ tâm thuyết pháp vì chúng sanh

Ca tụng Thế Tôn tối thắng rồi

Đấng tự tại trong tất cả pháp

Dùng đây khen ngợi thắng thiện căn

Khiến các chúng sanh chứng Bồ đề”.

 

Hộ Quốc Bồ Tát nói kệ khen ngợi đức Phật rồi chắp tay bạch Phật rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Lòng tôi có điều nghi muốn thỉnh hỏi xin đức Như Lai hứa cho”.

Đức Phật bảo Ngài Hộ Quốc Bồ Tát Tỳ Kheo: “Cho phép ông hỏi, Như Lai sẽ làm cho ông hết nghi và được vui mừng”.

Hộ Quốc Bồ Tát bạch rằng: “Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát tu hạnh gì mà ở nơi tất cả pháp thêm lớn công đức đến chỗ cứu cánh được tự tại chứng trí nhanh chóng được trí quyết định, rành rẽ tất cả pháp vào Nhứt thiết trí, giáo hoá chúng sanh hay trừ lưới nghi, hiểu Nhứt thiết dùng xảo phương tiện tế độ chúng sanh, thật hành đúng như lời thường tuyên chơn thiệt, được niệm Phật tam muội khéo thỉnh hỏi tất cả nghĩa sâu xa, nghe rồi có thể thọ trì mau lẹ được nhứt thiết chủng trí ?”.

Hộ Quốc Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 

“Bồ Tát tu hành thường quyết định

Chơn thiệt quyết định từ đâu sanh

Chỗ biển lớn trí huệ phân biệt

Xin đức Thế Tôn chỉ bảo cho

Thân Phật vi diệu như vàng ròng

Khối phước lớn hơn Trời và Người

Thương xót chúng tôi đại quy y

Công hạnh thanh tịnh chỉ bảo cho

Thế nào mà được lợi vô tận

Sanh giác đạo tổng trì cam lồ

Thế nào là biển trí thanh tịnh

Hay dứt nghi hoặc cho chúng sanh

Ở sanh tử vô lượng ức kiếp

Mà không lòng mỏi nhọc hối chán

Thấy các chúng sanh bị khổ bức

Thường làm lợi ích cho chúng sanh

Quốc độ thanh tịnh Phật quyến thuộc

Quốc độ tối thắng và thọ mạng

Tất cả những sự chỗ vi diệu

Xin nói hạnh Bồ đề thanh tịnh

Hàng phục các ma phá tà kiến

Khô cạn biển ái được giải thoát

Pháp hành tương tục không đoạn tuyệt

Đấng tối vô thượng chỉ bảo cho

Sắc lực tài bửu tứ biện tài

Lời dịu thương mến khiến người vui

Cơn mưa từ bi nhuần tất cả

Chư Phật cảnh giới chỉ bảo cho

Xin phát tiếng ca lăng tần già

Tiếng sấm đại phạm phá tà kiến

Chúng hội khát ngưỡng và pháp đến

Xin ban nước cam lồ giải thoát

Nay tôi muốn thành đạo vi diệu

Vì ưa thích pháp mà thưa thỉnh

Giờ nghe pháp đến cung kính chờ

Xin Phật dạy cho pháp bửu lớn

Bạch Phật ! Tôi muốn thành Bồ đề

Như Lai biết rõ chí nguyện tôi

Thiết tha cầu pháp nên hỏi Phật

Lành thay xin nói hạnh tối thắng”.

 

Đức Phật phán: “Lành thay, nầy Hộ Quốc! Nay ông có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy đem lợi ích an lạc cho nhiều người, cũng rất lợi ích cho đời sau, những người tu Đại thừa.  Ông lắng nghe, Phật sẽ chỉ dạy”.

Hộ Quốc Bồ Tát bạch rằng: “Lành thay, bạch đức Thế Tôn !  Xin chỉ dạy cho”.

Phật dạy : “Nầy Hộ Quốc ! Bồ Tát có bốn pháp hay hoàn thành những sự thanh tịnh như trên:

Một là tâm chơn thiệt không siểm khúc.

Hai là thật hạnh bình đẳng đối với các chúng sanh.

Ba là tâm niệm nhập vào không.

Bốn là thật hành như lời.

 

Hộ Quốc nên biết bốn thứ ấy có thể được pháp thanh tịnh của Bồ Tát”.

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 

“Nếu có Bồ Tát lòng không vạy

Mà thường chẳng lui đạo Bồ đề

Cũng không ý ngang trái cống cao

Đây gọi là trí huệ vô biên

Thấy các chúng sanh không được cứu

Bị sanh già bịnh chết bức ngặt

Phát tâm muốn qua biển sanh tử

Hay làm pháp thuyền cho tất cả

Bình đẳng điều phục các chúng sanh

Xem các chúng sanh như con một

Đều muốn cứu độ cho giải thoát

Đấng thắng trượng phu phát tâm này

Đi đứng ngồi nằm niệm pháp không

Thọ giả ngã tưởng đều không cả

Thế gian tất cả đều như ảo

Chúng sanh ngu si bị mê hoặc

Đại trí Bồ Tát nói lời ra

Y lời thật hành không sai thất

Điều phục tịch tịnh rời các lỗi

Hay cầu Bồ đề gọi Phật tử”.

 

Nói kệ xong đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Đại Bồ Tát lại có bốn thứ pháp vô úy :

Một là được đà la ni.  Hai là gặp thiện tri thức.  Ba là được thâm pháp nhẫn.  Bốn là giới hạnh thanh tịnh”.

 

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

            

Bồ Tát danh tiếng lớn

Do vì được tổng trì

Thọ trì pháp tối diệu

Của chư Phật tuyên nói

Hằng thường chẳng quên mất

Thêm lớn nơi trí huệ

Trí Bồ Tát vô ngại

Vượt hơn tất cả pháp

Thường gặp thiện tri thức

Thêm các pháp trợ đạo

Thường nói đại Bồ đề

Chỗ đi của chư Phật

Ác tri thức như lửa

Sợ cháy nên xa lìa

Nếu nghe pháp không tướng

Dũng mãnh vững tâm mình

Bồ Tát rời ngã nhơn

Tất cả các kiến chấp

Trì giới không khuyết lậu

Tâm họ đều tịch tịnh

Giáo hóa các chúng sanh

An trụ nơi Phật giới”.

 

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Chư Bồ Tát các công hạnh viên mãn đến chỗ cứu cánh có bốn công đức làm cho hoan hỉ :

 

Một là Bồ Tát thấy Phật nên sanh hoan hỉ.

Hai là nghe chánh pháp  nên sanh hoan hỉ.

Ba là xả bỏ tất cả nên sanh hoan hỉ.

Bốn là thuận pháp nhẫn nên sanh hoan hỉ “.

    

Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa ấy mà nói kệ rằng:

 

“Bồ Tát sanh chỗ nào

Thường thấy đấng tối thắng

Oai quang khắp tất cả

Soi sáng khắp thế gian

Thấy rồi lòng tín ngưỡng

Như Trời thờ Đế Thích

Vì độ các chúng sanh

Lúc cầu đạo Bồ đề

Theo Phật nghe chánh pháp

Chẳng sợ mà hoan hỉ

Nhứt tâm kính tin rồi

Tùy thuận lời Phật dạy

Nghe nơi pháp tùy thuận

Đắc nhẫn lòng không nghi

Các pháp không chúng sanh

Ngã tưởng cũng không có

Thường quán như vậy rồi

Xả bỏ tướng sanh vui

Đã chẳng chấp ngã tướng

Thấy người xin liền mừng

Thành ấp cùng ruộng đất

Vợ con và thân mạng

Đem bố thí tất cả    

Lòng không hề hối tiếc”.

 

Đức Phật nói kệ rồi bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử!  Có bốn pháp phải vứt bỏ:

Một là Bồ Tát vứt bỏ nhà thế tục.

Hai là đã xuất gia rồi chẳng tham lợi dưỡng

Ba là rời lìa thân cận đàn việt.

Bốn là chẳng tiếc thân mạng”.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

 

“Bồ Tát thấy lỗi nhà

Nên bỏ mà xuất gia

Đến ở nơi núi rừng

Chỗ tịch tịnh không người

Xa rời nam và nữ

Xa quyến thuộc đại chúng

Riêng mình không bạn bè

Như tê giác một sừng

Chuyên tâm cầu tịnh đạo

Được mất lòng không lo

Thiểu dục và tri túc

Ly siểm trừ kiêu mạn

Tinh tấn vì chúng sanh

Bố thí điều phục tâm

Khổ hạnh tu thiền định

Nhứt tâm cầu Phật trí

Chẳng tiếc thân và mạng

Xa lìa ái quyến thuộc

Vững tâm cầu Bồ đề

Ý chí như kim cương

Nếu có người chém chặt

Không có lòng giận thù

Tâm dũng mãnh thêm lớn

Cầu được nhứt thiết trí”.

    

 

Nói kệ xong, đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử!

Bồ Tát có bốn pháp không hối tiếc :

Một là chẳng phá hoại cấm giới, hai là ở a lan nhã, ba là thật hành bốn thánh củng, bốn là đa văn, đây là bốn thứ pháp không hối tiếc.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

“Trì giới tịnh vô cấu

Dường như châu ma ni

Chẳng sanh lòng cống cao

Khoe tôi hay trì giới

Lại đem chánh giới ấy

Dạy lại cho nhiều người

Thường hoài vọng như vậy

Thành tựu nơi Phật giới

Bồ Tát ở rảnh vắng

Nơi lan nhã thanh tịnh

Cũng chẳng nghĩ tưởng ngã

Tưởng thọ giả cũng không

Quan sát nam nữ sắc

Dường như những cỏ cây

Chẳng sanh tưởng nam nữ

Tưởng ngô ngã cũng không

An trụ bốn thánh chủng

Không giải đãi siểm khúc

Chí tâm hằng tu hành

Xa lìa những phóng dật

Cầu công đức đa văn

Thường tinh cần tu tập

Nguyện thành Nhứt thiết trí

Chỗ công đức tối thượng

Chúng sanh ở lao ngục

Không được ai cứu hộ

Luân chuyển sanh tử mãi

Cầu tài tự cung cấp

Tôi sẽ cầu pháp thuyền

Vớt họ khỏi sanh tử

Biển phiền não khổ lụy

Đưa họ đến bờ kia

Chúng sanh không quy y

Cũng không người cứu hộ

Chúng sanh tại hữu vi

Không ai đưa họ ra

Tôi sẽ làm Đạo Sư

Cứu họ được giải thoát

Thế nên tôi phát tâm

Cầu chứng đạo Bồ đề”.

 

Nói kệ xong,  đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát có bốn hạnh điều phục phải thật hành :

Một là nguyện sanh xứ lành thường gặp chư Phật.

Hai là cúng dường Sư Trưởng mà chẳng cầu báo.

Ba là thường thích rảnh vắng vứt bỏ lợi dưỡng.

Bốn là được biện tài vô ngại đầu đà nhẫn pháp.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

“Bồ Tát dũng mãnh thích núi rừng

Thường chẳng theo người cầu lợi dưỡng

Hằng được trí sâu vô ngại biện

Giỏi hay thông đạt các pháp tướng

Thường phải cúng dường các Sư Trưởng

Tùy thuận lời Thầy không chống trái

Tùy chỗ sanh ra gặp chư Phật

Cúng dường cung kính cầu Bồ đề

Thường sanh xứ tốt danh tiếng cao

Ở trời là tôn quí trong trời

Lại được thành tựu đạo Bồ đề

Dạy các chúng sanh hành thập thiện

Niệm Phật công đức thường hoan hỉ

Tôi cũng chẳng lâu thành Phật đạo

Đã thành Chánh giác đủ công đức

Cứu độ chúng sanh khỏi sanh tử”.

 

Nói kệ xong,  đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Bồ Tát có bốn pháp thanh tịnh hạnh Bồ đề :

 

Một là lúc hành Bồ đề không có tâm sân hận.

Hai là vứt bỏ quyến thuộc cung điện tài bửu thích ở núi rừng cũng chẳng khoe nói công đức của mình.

Ba là dầu bố thí mà chẳng cầu quả báo.

Bốn là tinh cần thích pháp chẳng thấy lỗi của thầy”.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

 

“Bồ Tát tâm tịnh không oán hận

Cũng chẳng tìm tội lỗi của người

Mình chẳng siểm khúc không nhiễm trước

Hành đạo Đại thừa cầu Bồ đề

Thấy rõ ở nhà là gốc khổ

Gần kề ác hữu không chánh niệm

Do đó vứt bỏ đi xuất gia

Ở nơi núi rừng cầu giải thoát

Thường ở rảnh vắng tịch tịnh vui

Dứt hẳn ái niệm nơi quyến thuộc

Chẳng tiếc thân thể và mạng sống

Riêng đi không sợ như sư tử

Khất thực nuôi thân thường biết đủ

Như loài chim bay không chứa cất

Chẳng thích sanh trời và nhơn gian

Chỉ cầu đạo Bồ đề Vô thượng

Riêng đi không bạn chỉ một mình

Hằng chẳng sợ sệt như sư tử

Sợ các phiền não như thú dữ

Nếu được lợi dưỡng lòng chẳng mừng

Thấy các chúng sanh luôn phóng dật

Từ bi thệ nguyện phá lỗi ấy

Vì tôi cứu hộ các chúng sanh

Nên thường hăng say siêng tinh tấn

Phàm có phát ngôn luôn thương mến

Với kẻ ghét thương luôn cười mỉm

Chẳng dính tất cả như gió thoảng

Chỉ nên cầu nơi hạnh trượng phu

Thường ưa tu tập không vô tướng

Xem pháp hữu vi như ảo hóa

Điều phục các căn ý lớn rộng

Đi đứng luôn ưa pháp cam lộ

Thường y Phật giáo hành đại đạo

Hằng thường thanh tịnh nơi nội tâm

Cầu đà la ni và biện tài

Mang gánh các khổ cầu Bồ đề

Bồ Tát thường quán công hạnh ấy

Hiện tiền lợi ích sanh hoan hỉ

Nếu chẳng ưa thích đạo Bồ đề

Người này không ác gì chẳng tạo”.

 

Nói kệ xong,  đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát :  “Bồ Tát có bốn thứ pháp đọa lạc :

Một là chẳng cung kính người khác.

Hai là bội ơn siểm khúc.

Ba là nhiều cầu lợi dưỡng danh vọng.

Bốn là trá hiện hành tốt khoe mình giỏi”.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

 

“Đối với cha mẹ và Sư Trưởng

Họ thường kiêu mạn không cung kính

Trái quên ân dưỡng lòng siểm khúc

Các căn tán loạn nhiều ngu si

Luôn nhớ lợi dưỡng chẳng thôi ngớt

Siểm khúc trá hiện tướng tinh tấn

Tự nói trì giới và khổ hạnh

Không ai có được như mình cả

Ác khẩu lời thô ưa tranh đấu

Thường tìm lỗi người chẳng thôi dứt

Họ luôn xa rời hạnh Sa Môn

Làm ruộng canh tác và buôn bán

Chư Tỳ Kheo trong đời vị lai

Vứt bỏ công đức và giới hạnh

Vì lòng tật đố và đấu tranh

Làm tổn hư mất chánh pháp Phật

Họ cách Bồ đề rất xa vời

Họ cũng xa rời bảy thánh tài

Chống trái tám đường chánh giải thoát

Trôi lăn năm loài trong sanh tử”.

 

Nói kệ xong,  đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát: “Này Thiện Nam Tử! Có bốn thứ pháp chướng đạo :  Đó là bất tín, giải đãi, ngã mạn và sân hận”.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

 

“Bất tín giải đãi lòng ám độn

Lòng thường ngã mạn và sân hận

Thấy chư Tỳ Kheo hành nhẫn nhục

Đuổi xua ra khỏi các chùa tháp

Nếu được lợi dưỡng lòng hoan hỉ

Đều nói ta là người thường trụ

Luôn tìm mọi cách vạch lỗi người

Người nào có tội tôi trị phạt

Những người như vậy xa chánh pháp

Ganh ghét công đức đọa tam đồ

Chán ghét pháp diệu của chư Phật

Người này sẽ vào trong lửa lớn

Người này gây ác chẳng thôi dứt

Quyết sẽ chịu đủ khổ trong khổ

Thế nên Bồ Tát cầu Bồ đề

Chớ để phải hối đọa ác đạo

Vô lượng ức kiếp Phật mới hiện

Để làm lợi ích cho chúng sanh

Bồ Tát đã được thân cõi lành

Phải bỏ phóng dật cầu giải thoát”.

Nói kệ xong,  đức Phật bảo Hộ Quốc Bồ Tát:  “Này Thiện Nam Tử! Phải bỏ bốn hạng người chẳng được gần kề họ: 

 

Một là chẳng được gần kề ác tri thức.

Hai là chẳng được gần kề người chấp kiến.

Ba là chẳng được gần kề kẻ báng pháp.

Bốn là chẳng được gần kề người tham lợi dưỡng”.

 

Đức Thế Tôn lại  nói kệ rằng:

 

“Hay xa ác tri thức

Gần kề thiện tri thức

Đạo Bồ đề tăng trưởng

Như trăng lần tròn đầy

Xa lìa kẻ chấp kiến

Chấp ngã chấp thọ giả

Bỏ đi như độc

Để cầu nên Phật đạo

Chê bai Phật chánh pháp

Vị cam lồ tịch tịnh

Nếu muốn cầu Bồ đề

Phải tránh như phẩn dơ

Xa lìa tham lợi dưỡng

Cũng bỏ người ác hạnh

Hạng ấy chẳng nên gần

Như tránh hố lửa lớn

Nếu muốn hành phục ma

Chuyển pháp luân vô thượng

Muốn cầu lợi đệ nhứt

Mau xa ác tri thức

Bỏ ái và ghét xấu

Lợi danh cũng xa tránh

Muốn cầu đạo vô thượng

Thường tu trí của Phật”.

 

Đức Thế Tôn nói kệ xong,  lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát có bốn thứ pháp thọ khổ đời sau :

Một là khinh mạng người có trí.

Hai là thường ôm lòng tật đố.

Ba là ở nơi tất cả pháp không có lòng tin.

Bốn là ở nơi pháp tịnh trí thường nghi không nhẫn thọ mà cầu lợi dưỡng”.

 

Đức Thế Tôn  nói kệ rằng:

 

“Người hầu gần Phật bực có trí

Tất cả Trời Người phải cúng dường

Mà lại cống cao lòng kiêu mạn

Do đó sẽ thọ vô biên khổ

Với pháp tịnh trí không tin nhận

Lợi dưỡng được cầu đều phi pháp

Thường hoài kiêu mạn và cống cao

Thấy người có trí không cung kính

Ở trong Phật pháp không tin hiểu

Với chúng hiền thánh cũng chẳng tin

Người này thường đi trong ác đạo

Sanh làm thân người nhiều ngu si

Họ bỏ thọ mạng nhơn gian rồi

Ở đại địa ngục chịu khổ lớn

Nơi đây kiếp tận sanh phương khác

Súc sanh ngạ quỉ cũng như vậy

Nếu người muốn cầu được làm Phật

Thành thắng trượng phu hết các khổ

Thường phải xa rời nghiệp tam đồ

Tu các công đức thành Chánh giác”.

 

Nói kệ xong,  đức Phật lại bảo Hộ Quốc Bồ Tát:  “Có bốn thứ trói buộc Bồ Tát:

 

Một là khinh mạn người khác.

Hai là nơi thiền định thế tục có lòng ưa thích chẳng cầu cứu cánh.

Ba là chẳng gìn giữ tâm mình, trí huệ chưa thành mà phóng dật.

Bốn là vì cầu lợi dưỡng mà vào nhà người khác.

 

Trên đây là bốn thứ trói buộc Bồ Tát.

Đức Thế Tôn  lại nói kệ rằng:

 

“Luôn luôn khinh mạn người

Ưa thích thế gian thiện

Tham trước các kiến phược

Như voi lún bùn sâu

Ưa vào nhà bạch y

Thường có lòng phóng dật

Tối ngu không trí huệ

Hạnh ấy tên trói buộc

Muốn dứt khổ sanh tử

Xa rời hẳn tam giới

Phải bỏ lòng kiêu mạn

Thường hành đạo Bồ Tát

Chịu lấy vô biên khổ

Vứt bỏ các sự vui

Cũng rời lìa thương ghét

Thành Phật không nhiễm trước

Bồ Tát phải thường tu lục độ

Các địa các trí các lục thảy

Tất cảc công đức nếu thành tựu

Thì được thoát khỏi lưới sanh tử

Phật ở vô lượng kiếp xa xưa

Vì các chúng sanh cầu Bồ đề

Thường hành bố thí để điều phục

Bỏ lìa ân ái tu chánh đạo

Hằng chẳng xa rời chỗ vắng vẻ

Khổ hạnh ốm gầy cầu Bồ đề

Phấn khởi tinh tấn không lười biếng

Cầu được trí trượng phu tối thắng

Thấy các chúng sanh tại tam giới

Luân chuyển năm loài chịu sanh tử

Thương xót tất cả khởi đại bi

Do đó mà cầu Bồ đề đạo

Bỏ lìa con cưng và thê thiếp

Cũng bỏ của cải bảy báu thảy

Thọ mạng quốc độ và đại địa

Để cầu Bồ đề Phật trí huệ

Thuở xưa Phật ở núi rừng tốt

Làm tiên tu hành tên Nhẫn nhục

Bị vua Ca lợi xẻo tai mũi

Máu biến làm sữa không lòng hờn

Thuở xưa từng làm con hiếu thảo

Yêu mến cúng dường cha và mẹ

Bị tên độc kẻ ác bắn trúng

Bấy giờ cũng không lòng oán giận

Chẳng tiếc mạng sống nhảy gộp cao

Để cầu lời lành chư Phật dạy

Bấy giờ cũng không thấy thân mạng

Chỉ để thành đại sự Bồ đề

Thuở xưa thương xót các thú đói

Thí thịt thân mình cho tám cọp

Bấy giờ chư Thiên ở hư không

Khen rằng lành thay đại trượng phu

Thuở xưa ưa làm đại thí chủ

Từng làm tịnh hạnh Bà La Môn

Vì thương chúng sanh khổ đói nghèo

Vào biển cầu tìm châu như ý

Rồi bị thần biển cướp lấy mất

Bấy giờ ta cố tát biển cả

Liền được bửu châu về Diêm Phù

Dùng cứu giúp chúng sanh nghèo thiếu

Cũng từng làm vua tên Tô Ma

Cho đến mất mạng chẳng nói dối

Các vua do ta được giải thoát

Tiếng tăm vang dội khắp mười phương

Xưa ta từng thấy người nghèo cùng

Ta đang làm vua đem thân thí

Khiến họ giàu to nhiều của báu

Nên ta được hiệu thí tất cả

Xưa ta từng làm vua Thi Tỳ

Chim câu kinh sợ đáp lòng ta

Ta đem thân mình thay mạng chim

Cho chim thoát khỏi sự khủng bố

Xưa ta làm vua tên Sư Tử

Thân mạng bịnh nặng thầy cho thuốc

Có người bịnh đến xin thuốc ấy

Ta chẳng tiếc thân cho họ trước

Xưa ta tu hành vì chúng sanh

Làm Vương Tử tên Tô Đạt Noa

Có người đến xin con và vợ

Ta chẳng hề tiếc đều cho cả

Từng làm Bồ Tát tên Nghiêm Xí

Vì cảm hóa tài đức Quốc Vương

Trải qua tám vạn bốn ngàn năm

Cố gắng tinh tấn mới cảm hóa

Cũng làm Vương Tử tên Tịnh Oai

Tự đốt thân mình cúng tháp Phật

Cung kính cúng dường đấng Thập Lực

Vô Thượng Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn

Từng làm Quốc Vương tên Nguyệt Quang

Có người phạm chí tên Khả Úy

Theo ta cầu xin trọn cái đầu

Ta liền mau mắn đem đầu thí

Lại làm Quốc Vương tên Phước Đức

Ở trong các tụ lạc phố phường

Chứa đầy thuốc men và thực phẩm

Để ban cho tất cả chúng sanh

Từng làm Quốc Vương tên Nhựt tịnh

Kỹ nữ xinh đẹp đủ ngàn người

Chuỗi ngọc bảy báu trang nghiêm đầu

Hoa hương đẹp thơm dùng nghiêm sức

Cũng đem bố thí cho mọi người

Lại làm Quốc Vương tên Tri Túc

Tay chưn dịu mềm như bông tơ

Sắc đẹp sạch trong như hoa sen

Cũng đem bố thí các chúng sanh

Lại làm thương chủ tên Tịnh Nhãn

Đem năm trăm người tìm bảy báu

Các quỉ La Sát hiện mỹ nữ

Thương chủ cứu thoát cả đoàn người

Từng làm Vương Tử tên Phước Diệm

Thê thiếp kỹ nữ đến số ức

Thân hình xinh đẹp như thiên nữ

Rời bỏ xuất gia không ái luyến

Lài làm thương chủ tên Kim Sắc

Lúc ấy có Phật hiệu Vô Cấu

Kim Sắc đối Phật đốt mười ngón

Cúng dường Tối Thắng Lưỡng Túc Tôn

Lại làm Quốc Vương hiệu Hoa Nhãn

Mọi người chiêm ngưỡng lòng không nhàm

Đem đôi mắt đẹp để bố thí

Vì lòng vua thương chúng sanh vậy

Lại làm Bồ Tát tên Đa Phát

Thấy có phụ nhơn vừa mất chồng

Ngày đêm nhớ thương mãi không nguôi

Triền miên lõa lồ tâm điên cuồng

Bồ Tát Đa Phát lòng xót thương

Hóa hình chồng chết bảo vợ cuồng

Lần lần giáo hóa vợ cuồng kia

Khiến hết cuồng điên tâm tỉnh ngộ

Lại làm Bồ Tát tên Phổ Chiêm

Thấy một người bịnh gầy đau khổ

Bấy giờ Phổ Chiêm sanh từ bi

Đem huyết nhục mình thí người bịnh

Lại làm Quốc Vương tên Hoa Phu

Thấy có một người bịnh khốn ngặt

Hoa Phu Bồ Tát sanh từ tâm

Chẻ xương tủy mình chữa bịnh ấy

Lại làm Quốc Vương tên Thành Lợi

Thấy có một người quá nghèo cùng

Đem hết của cải thí cho họ

Lại bỏ thân mạng không luyến tiếc

Ta làm Quốc Vương tên Tín Tràng

Hai tay nhu nhuyến đủ luân tướng

Có người đến xin hai tay ấy

Vì cầu Bồ đề ta liền cho

Lại làm Quốc Vương tên Phổ Hiện

Có bốn thiên hạ nhiều của báu

Nước nhà giàu vui dân chúng đông

Vì cầu Bồ đề đem bố thí

Lại làm Vương nữ tên Trí Ý

Thân thể trắng sạch rất nhu nhuyến

Từ bi hoan hỉ cắt thịt đùi

Và thí máu huyết lòng chẳng tiếc

Lại làm nữ nhơn tên Ngân Sắc

Trong thành Kim Sắc có phụ nữ

Mới đẻ đói khát muốn ăn con

Ngân Sắc thẻo vú cho người đói

Lại làm Quốc Vương tên Văn Đức

Rất giàu tiền của nhiều anh lạc

Vàng bạc bảy báu các xe cộ

Người đời khó bỏ vua đều thí

Lại làm Vương Tử tên Tri Ân

Có người té biển tên Vô Ân

Vô Ân vì báu đâm mắt ta

Bấy giờ lòng ta chẳng oán hận

Lại nhớ quá khứ làm lính chiến

Ở trong đại trận không lòng giết

Thà thân mình chết chẳng hại người

Nhẫn đến kiến muỗi không tưởng giết

Lại nhớ quá khứ làm chim trĩ

Cung kính cúng dường bực tôn trưởng

Đồng loại già trẻ đều cấp cho

Bấy giờ đều không lòng ngạo mạn

Lại nhớ quá khứ làm vượn khỉ

Ở núi gặp phải người thợ săn

Cả bầy khỉ vượn về nương ta

Vì thương mạng chúng ta liền cứu

Lại nhớ quá khứ làm tượng vương

Bị Quốc Vương kia bắt trói cột

Ta nhớ cha mẹ mù đôi mắt

Thà chịu đói chết nhịn không ăn

Lại nhớ quá khứ làm thân gấu

Có người lạc đường ta cứu nuôi

Họ dẫn thợ săn phản hại ta

Dầu bị phản hại ta không giận

Lại nhớ quá khứ làm tượng vương

Bị trúng mũi tên của thợ săn

Ta cầu Bồ đề các công đức

Đem ngà dâng cho thợ săn ấy

Lại nhớ quá khứ làm chim trĩ

Ở tại đồng quê cạnh khu rừng

Rừng ấy bị lửa cháy lan đến

Ta cứu lửa rừng trời mưa hoa

Xưa ta từng làm nai chín màu

Ăn cỏ uống nước bên bờ sông

Nước sông sâu rộng dòng chảy gấp

Có người té sông ta cứu họ

Người ấy ham tiền lãnh lịnh vua

Đem nhiều binh lính đến hại ta

Ta cầu Bồ đề làm từ bi

Đối với người ấy không oán giận

Lại nhớ quá khứ làm rùa lớn

Tế độ người buôn qua khỏi biển

Năm trăm người buôn ăn thịt ta

Lòng ta từ bi không giận họ

Ta nhớ quá khứ hành Bồ đề

Từng làm thân cá lội trong nước

Thương xót tất cả nên xả thân

Trăm ngàn chúng sanh ăn thịt ta

Ta thấy trăm ngàn chúng sanh bịnh

Hóa thân làm thuốc lớn như núi

Muốn cho chúng sanh trừ bịn khổ

Biến làm thân trùng tên là Nguyệt

Lại nhớ xưa làm sư tử vương

Thân lớn sức mạnh mà lòng thương

Lại nhớ quá khứ làm mã vương

Thân sắc trắng sạch như ngọc tuyết

Thường tại biển lớn đảnh núi cao

Cứu các lữ hành nạn La Sát

Lại nhớ quá khứ cầu Bồ đề

Từng làm Quốc Vương tên Cư Gia

Thấy các dục lạc nhiều lỗi họa

Chẳng theo dâm nữ bị lời gian

Lại nhớ quá khứ từng làm thỏ

Thường dạy bày thỏ các việc lành

Cùng tiên ở chung đồng tu niệm

Xả thân tự thiêu cứu tiên đói

Lại nhớ quá khứ làm anh võ

Thường ở cụm rừng nhiều hoa quả

Báo ơn cây khô chẳng rời bỏ

Vua trời biến cây khô sanh trái

Lại nhớ từng làm vua loài khỉ

Thấy bầy khỉ vượn bị rồng hại

Bèn dạy bầy khỉ uống ống tre

Khỉ vượn đều khỏi nạn rồng hại

Ta lại nhớ xưa làm anh võ

Lấy thóc của người nuôi cha mẹ

Chủ lúa bắt ta giận quở rằng

Sao dám trộm lấy lúa nhà người

Ta thưa lúc người gieo trồng lúa

Hứa rằng cho các chúng sanh ăn

Nay tôi lấy về nuôi cha mẹ

Chẳng thể bảo là trộm cắp được

Chủ lúa tức thì lòng hoan hỉ

Tôi là cầm thú chim là người

Lành thay anh võ có trí huệ

Biết hiếu cha mẹ biết cúng dường

Từ nay về sau tôi thí lúa

Cho chim đem về dâng cha mẹ

Quá khứ như vậy vô lượng sự

Không khổ hạnh nào mà chẳng làm

Chưa hề sanh lòng nhàm chánh mỏi

Để cầu vô thưọng thanh tịnh đạo

Bao nhiêu vật trong và vật ngoài

Không có một thứ chẳng phát khởi

Trì giới nhẫn nhục tinh tấn thiền

Vô lượng phương tiện và trí huệ

Da thịt xương tủy và máu huyết

Đem thí tất cả cho chúng sanh

Thuở xưa ta ở trong núi rừng

Dũng mãnh tinh tấn thân khô kiệt

Để tìm Phật dạy Đại Tiểu thừa

Truyền dạy chúng sanh khiến nhập đạo

Thường thích ở tại chỗ đầu đà

Luôn luôn tu hành không vứt bỏ

Tất cả khổ hạnh khó như vậy

Từ thuở xa xưa ta đều làm

Phật nói vị lai các chúng sanh

Nghe ta thuật lại lòng khinh cười

Chẳng tin nhận làm một câu kệ

Trở lại hủy báng pháp như vậy

Vì họ tham ưa ăn mặc thảy

Lòng luôn suy tưởng ngủ nghỉ nhiều

Siểm khúc hủy pháp không tàm quí

Phá hoại chánh pháp không công đức

Nghe pháp vi diệu tịch tịnh này

Cho rằng chẳng phải của Phật dạy

Thầy ta đa văn dường biển cả

Giảng giỏi nói hay tối đệ nhứt

Họ cũng chẳng hành pháp như vậy

Các ông chớ cầu sự hư vọng

Trong ấy không ngã không thọ mạng

Cũng chẳng nói có tướng chúng sanh

Luống tự nhọc nhằn không phước đức

Uổng công tu hành các khổ hạnh

Đã nói có pháp tên Đại thừa

Sao lại còn nói không vô ngã

Bởi không chúng sanh không tác giả

Thế nên nơi pháp chẳng cần cầu

Các văn cú ấy giả làm ra

Cũng như ngoại đạo tà ý thuyết

Như Lai chẳng nói sự như vậy

Quở trách mắng nhục chư Tỳ Kheo

Bọn ấy bất thiện không tu sĩ

Gian ngụy khi dối đủ sự ác

Đời sau ở trong pháp của Phật

Mà làm hình tướng các Tỳ Kheo

Trong lòng tật đố đầy mạn phú

Tay chưn nhiễu động mất oai nghi

Ca sa luôn luôn thòng hai gốc

Thân mặc pháp phục thường ở chợ

Đi trong nhà tục hằng say rượu

Thân mặc pháp y gần người tục

Vứt bỏ chánh pháp khối công đức

Ưa làm sứ giả cho người tục

Chứa nuôi bò ngựa dê heo gà

Tôi trai tớ gái vật bất tịnh

Làm ruộng làm vườn hằng loạn tâm

Lòng ưa việc ác không hạnh lành

Cũng chẳng thân cận thiện tri thức

Miệng chẳng lựa chẳng chọn lời nói năng

Trong thân làm đủ các sự ác

Tham lấy vật Tăng vật tháp Phật

Huống là của mình mà chịu thí

Thấy chư Tỳ Kheo trì tịnh giới

Chê bai chẳng phải thiệt phạm hạnh

Chẳng gìn cấm giới không oai đức

Thích ở nhà tục xâm vợ người

Bạch y có vợ còn hổ thẹn

Ác Tỳ Kheo kia tham còn hơn

Chứa nuôi vợ con cầu chẳng chán

Cùng các kẻ tục không có khác

Nếu có đàn việt thỉnh cúng dường

Bố thí áo cơm thuốc men thẩy

Thọ của tín thí không tịnh niệm

Chỉ thêm tham dục xâm vợ người

Lòng thường mơ tưởng bên nữ sắc

Tùy thuận phiền não không thánh hạnh

Phương tiện dụ phỉnh các phụ nữ

Giáo hóa người tục khiến đoạn dục

Rằng người tham dục đọa ác đạo

Đọa vào địa ngục quỉ súc sanh

Nhưng chính thân mình chẳng y giáo

Làm sao truyền pháp giáo hóa người

Người này ba nghiệp chẳng đúng pháp

Bao nhiêu quyến thuộc cũng như vậy

Ngày đêm họp bàn không thôi nghỉ

Chỉ luận ngũ dục các thế sự

Nhận nuôi môn đồ chỉ sai khiến

Trọn không dạy bảo các đạo lành

Nhận đệ tử đông tụ bao quanh

Hiển mình đức lớn cầu danh lợi

Ngoài hiện dị tướng dối từ bi

Nhiếp các đồ chúng chẳng cầu lợi

Môn đồ quyến thuộc nhiều bịnh hoạn

Khô gầy hủi lác ghẻ chóc thảy

Chỉ là tạp loại hạng hạ nhơn

Trọn chẳng chỉ dạy Phật pháp lành

Giới văn định huệ đều vứt bỏ

Chẳng làm việc làm của Tỳ Kheo

Chẳng đạo chẳng tục không tên gọi

Dường như khúc gỗ hư mục rã

Đối với luật nghi lòng khinh rẻ

Bồ tát thuyết giới cũng coi khinh

Tự tại dạo chơi trái lời Phật

Đường đột như voi say thả lòng

Hoặc lúc dối hiện ở núi rừng

Lòng thường tưởng việc ở thành thị

Phiền não ba độc luôn phát khởi

Chẳng thể tạm thời lòng tịch tịnh

Quên mất lời Phật đã dạy răn

Cùng hạnh đầu đà các công đức

Ngã mạn cống cao đầy trong thân

Đọa tại a tì ngục đáng sợ

Ngày đêm hằng luận quốc độ sự

Cũng thường luận nói nơi đạo tặc

Thân tâm chuyên lo việc thân duyên

Bỏ lìa thiền định và trí huệ

Dầu cho có tu ưa sự thô

Lòng lo tự an nên xây dựng

Giả sử xây dựng Tăng già lam

Tham ưa phòng nhà mày luôn nhíu

Thân khẩu ý mình chẳng điều nhu

Đồ chúng học theo cũng giống vậy

Ác Tỳ Kheo kia dầu tạo tự

Chuyên vì thân mình và quyến thuộc

Nếu có Tỳ Kheo thuận tùng họ

Họ liền áp trí nhiếp thọ ở

Nếu có trì giới chư Đại Đức

Phương tiện giỏi hay thuyết chánh pháp

Tự điều phục mình điều phục người

Họ trọn chẳng nhận Đại Đức ấy

Rằng phòng hiện nay tôi đương ở

Phòng khác của các đệ tử tôi

Ngoài ra đã thuộc các đồng học

Ông đi chỗ khác đây không chỗ

Hiện nay chỗ có giường chõng ấy

Đều giao phó người thuộc về người

Không còn dư chỗ để dung ông

Cũng không áo cơm ông nên đi

Đồ dùng tạm thời còn không cho

Huống nhờ phòng nhà và các vật

Chẳng làm tăng thứ pháp như vậy

Ác Tỳ Kheo ấy như tục nhơn

Chứa nhiều tiền của quyến thuộc đông

Hàng đệ tử  Phật sống đúng pháp

Họ luôn đuổi xua chẳng cho ở

Có lúc họ nhớ lời Phật dạy

Lòng họ bi thương vào núi rừng

Than ôi pháp mầu của Phật dạy

Chẳng lâu sẽ diệt chẳng còn hiện

Lại có Tỳ Kheo cầu nhiều lợi

Thân không pháp hạnh ghét có đức

Dầu có người trì giới công đức

Bị họ ghét khinh không lợi dưỡng

Đều tự buồn than bỏ thành ấp

Thường ở trong núi vắng rừng quạnh

Những kẻ si mạn cống cao ác

Luôn luôn đấu tranh thô lưỡng thiệt

Khi dối người đời được lợi dưỡng

Tự cho cùng Thánh đồng không khác

Phật giáo chánh pháp tạng công đức

Đầy đủ tất cả công đức diệu

Đời sau bị hoại không còn hiện

Bởi do ngã mạn không trì giới

Như kho báu kia bị người phá

Như ao hoa sen bị khô cạn

Như xe báu kia bị gãy hư

Đời sau Phật pháp cũng như vậy

Ác Tỳ Kheo kia khó điều phục

Diệt Phật chánh pháp không còn thừa

Ở trong đời ác thuở vị lai

Phá hoại Phật pháp rất đáng sợ

Những kẻ vui thích sự ác ấy

Rời xa Trời Người và hạnh lành

Từ nơi thân này xả mạng rồi

Đọa vào địa ngục quỷ súc sanh

Ở đó vô lượng ức ngàn năm

Chịu đủ tất cả những khổ não

Về sau giả sử được thân người

Nhiều khổ uế ác luôn bất tịnh

Hoặc đui hoặc điếc hoặc câm ngọng

Thân thể luôn luôn nhiều bịnh tật

Nhan sắc xấu ác người chẳng ưa

Thường phải sợ sệt phục vụ người

Khó vừa ý người khó được thương

Có lời nói ra không được tin

Nếu có người ác hạnh như vậy

Ở đâu cũng bị quở đuổi xua

Người ấy mang nhiều những bịnh khổ

Thường bị gậy gộc đánh xua đuổi

Thường bị đói khát làm khổ thân

Mọi người ngó thấy đều khinh rẻ

Nếu nghe như vậy nhiều khổ lụy

Phải bỏ các ác tâm điều phục

Đối với chúng sanh làm điều lành

Chớ để ngày sau phải ăn năn

Nếu người mến kính Phật Thế Tôn

Thánh chúng trì giới pháp đầu đà

Các ông phải siêng cầu hạnh ấy

Phải xa quyến thuộc và lợi danh

Danh lợi điên đảo như huyễn hoá

Phải xem hữu vi như mộng mơ

Ân ái hiệp hội tất biệt ly

Tất cả hữu vi chẳng bền lâu

Chớ bỏ chánh cần căn lực thảy

Siêng cầu các môn Ba la mật

Trong khi chưa chứng diệu Bồ đề

Thường phải tu tập tất cả hạnh”.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy