× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 16 BỒ TÁT KIẾN THIỆT THỨ MƯỜI SÁU 8

Phẩm

Biến Tịnh Thiên thọ ký

Thứ hai mươi mốt

 

Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng  hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Ðại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ  đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người,hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.

Tại sao vậy?

Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàn và giác ngộ Vô thượng Bồ đề.

Ðại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Ðại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Ðạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Ðại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :

“Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh

Ở nơi Phật pháp đều biết hết

Ðầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư

Các căn tịch tĩnh như tịch diệt

Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường

Ðấng Mâu Ni đã qua sanh tử

Tôi nay tán thán đại Ðạo Sư

Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt

Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh

Cũng lại chẳng có chỗ y trụ

Như Lai khéo biết sự vọng tưởng

Như nhà ảo thuật biết sự ảo

Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn

Dụ như hang sâu dột tiếng vang

Thế Tôn tri kiến khéo như vậy

Tất cả thế gian Trời Người thảy

Không có chúng sanh không thọ mạng

Cũng lại không nhơn  không có ngã

Ðại trí quan sát tất cả tưởng

Rõ thấu ý tưởng đều về không

Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi

Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ

Tất cả thế gian các Trời Người

Chẳng lường biết được trí Như Lai

Ðạo Sư diễn nói duyên chúng sanh

Ðó là từ tâm căn lành lớn

Biết rõ tất cả các chúng sanh

Không có chúng sanh và thọ mạng giả

Nơi đây chúng tôi  không cấu trược

Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc

Thế nên nơi Phật thắng trí huệ

Ðấng đáng thọ cúng dâng cúng dường

Ở trong mười phương thế giới kia

Tìm khổ rốt ráo chẳng có được

Như Lai vô thượng trời trong trời

Nói duyên chúng sanh phát từ tâm

Ðây là lời dạy của Thế Tôn

Nay tôi được hiểu cũng như Phật

Vì thế tôi đối Thế Gian giải

Nay được cúng dường bực đáng cúng

Ðã không chúng sanh cũng không khổ

Thế nên không có được cứu độ

Ðã khiển trừ được lòng ưu muộn

Bèn được mừng vui rất hớn hở

Phật giáo như vậy bất tư nghị

Chúng tôi đã được biết như thiệt

Thế nên nay tôi cúng dường Phật

Nguyện được trí vô thượng Như Lai

Phật ở các loài chẳng thấy khổ

Niết bàn cũng lại bất khả đắc

Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử

Dùng đây lợi ích các thế gian

Không khổ không loài không chúng sanh

Cũng không Niết bàn để y trụ

Biết được Phật pháp như vậy rồi

Thế nên chúng tôi nay cúng dường

Phật đủ từ bi và hỉ xả

Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết

Mà lại chẳng thấy có chúng sanh

Ðược trụ nơi bốn tâm vô lượng

Chẳng thấy có ai là phóng dật

Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật

Biết được giáo pháp của Phật rồi

Nay tôi cúng dường đại Ðạo Sư

Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân

Quán thân cứu cánh bất khả đắc

Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm

Mà nói có niệm và thất niệm

Thiện Thệ thường nói tu học niệm

Ðó là quán thân chánh niệm xứ

Nay được cúng dường đấng cứu độ

Thế Tôn quán thọ bất khả đắc

Vì thọ không có thể tánh vậy

Cũng lại quán sát nơi thọ giả

Cứu cánh không có tánh chơn thiệt

Và quán người tu niệm xứ ấy

Cứu cánh cũng lại bất khả đắc

Chúng tôi biết Phật pháp như vậy

Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư

Quán tâm và quán tâm số pháp

Cứu cánh thể tánh bất khả đắc

Cũng lại chẳng thấy có tu niệm

Và không ai chánh trụ niệm xứ

Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp

Người cầu giải thoát phải tu học

Chúng tôi biết Phật giáo như vậy

Nay được cúng dường Chánh Biến Tri

Như Lai chẳng thấy có các pháp

Cũng chẳng thấy có người tu pháp

Ðại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm

Niệm ấy cũng lại tánh tự không

Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp

Muốn cầu giải thoát phải nên tu

Chúng tôi biết Phật pháp như vậy

Nay được cúng dường Nhứt thiết trí

Một niệm xứ còn bất khả đắc

Huống lại còn có ba và bốn

Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy

Các niệm xứ ấy thảy đều không

Thế nên thiệt cầu bất khả đắc

Cứu cánh không người thọ khổ lạc

Chúng tôi biết thánh giáo như vậy

Nay được cúng dường Phật Thế Tôn

Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần

Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập

Ðây thì hay làm đường giải thoát

Sẽ được ra khỏi biển sanh tử

Mà không ai thoát không ai trói

Không Phật không giáo không Bồ đề

Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng

Thế nên nay tôi cúng  Ðại Thánh

Phật dạy bốn thứ như ý túc

Ðường an ổn giải thoát thắng diệu

Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh

Tu hành đạo nầy được Niết bàn

 Như ý và túc cùng người tu

Chơn thiệt quán sát bất khả đắc

Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm

Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có

Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy

Nơi đây chúng tôi đều biết cả

Tâm trí thanh tịnh không cấu uế

Ðều được xa rời các nghi hoặc

Dùng đây tức là thượng cúng dường

Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng

Thế nên diệu trí không ngang sánh

Nay tôi đều được dâng cúng dường

Ðấng Thế Gian Giải nói ngủ căn

Xuất thế được đến giải thoát

Cẩn thận chớ lười thường siêng tu

Ðó là xu hướng Niết bàn lộ

Căn và người tu thảy đều không

Cũng không giải thoát và người thoát

Nơi đây chúng tôi đều không nghi

Thế nên nay được cúng dường Phật

Ðạo Sư chỉ dạy năm thứ lực

Ðường chánh đến được thành Niết bàn

Ðây dứt được hết phiền não phược

Khiến người bị trói được giải thoát

Thể các lực ấy tánh tự không

Phiền não và Phật đều cũng không

Chúng   tôi nơi đây không nghi lự

Thế nên nay được cúng Như Lai

Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi

Bồ đề phần pháp đạo tối thắng

Hay mở sự trói các chúng sanh

Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng

Không có trói buộc và giải thoát

Cũng không ai bị trói được mở

Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc

Thế nên nay được cúng dường Phật

Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo

Hiển thị tất cả các quần sanh

Ðây là gốc khổ các phiền não

Tu học thánh đạo dứt trừ được

Cả hai pháp ấy lìa đối trị

Ðó là thánh đạo và phiền não

Chúng tôi nơi đây đều không nghi

Thế nên được cúng đấng đáng cúng

Tu xa ma tha và xá na

Ðạo ấy hay hết các mé khổ

Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ

Thể các lực ấy tánh tự không

Phiền não và Phật đều cũng không

Chúng   tôi nơi đây không nghi lự

Thế nên nay được cúng Như Lai

Ðại Tiên diễn nói bảy giác chi

Bồ đề phần pháp đạo tối thắng

Hay mở sự trói các chúng sanh

Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng

Không có trói buộc và giải thoát

Cũng không ai bị trói được mở

Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc

Thế nên nay được cúng dường Phật

Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo

Hiển thị tất cả các quần sanh

Ðây là gốc khổ các phiền não

Tu học thánh đạo dứt trừ được

Cả hai pháp ấy lìa đối trị

Ðó là thánh đạo và phiền não

Chúng tôi nơi đây đều không nghi

Thế nên được cúng đấng đáng cúng

Tu xa ma tha và xá na

Ðạo ấy hay hết các mé khổ

Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ

Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch

Quả xa ma tha và xá na

Tất cả thứ ấy thảy đều không

Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc

Vì thế chúng tôi nay cúng dường

Phật nói bất tịnh trị tham dục

Từ tâm đối trị các sân khuể

Tỳ bà xá na đối trị si

Như Lai hiển thị các chúng sanh

Ðây đều vô tác không tạm dừng

Thế nên không cấu cũng không tịnh

Chúng tôi nơi ấy đều không nghi

Thường thích cúng dường đại Ðạo Sư

Mười nghiệp bất thiện của Phật nói

Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác

Sát sanh thâu đạo và tà dâm

Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu

Ỷ ngữ tham dục và sân khuể

Tối hậu thứ mười tên tà kiến

Phật nói thứ ấy là bất thiện

Là nghiệp đạo ác của chúng sanh

Ðã không chúng sanh cũng không hại

Cả chín nghiệp kia cũng đều không

Không có đối trị các thiện ác

Vì tự tánh nó vốn không tịch

Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy

Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh

Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi

Thế nên nay cúng trí vô thượng

Nếu người tu pháp của Như Lai

Người ấy tức là chơn Phật tử

Người ấy xứ xứ đều thọ vui

Hằng thường xa lìa các khổ não

Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy

An ổn dẫn đạo các quần sanh

Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi

Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».

Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

Ðức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

« Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng

Vì lợi ích đời hiện mỉm cười

Thập Lực  Thế Hùng siêu tất cả

Mà hay hóa phục các đại chúng

Giỏi hiểu các pháp đại Ðạo Sư

Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn

Ðấng Thế Gian Giải lòng không thiếu

Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười

Các đại chúng đây đều một lòng

Không có loạn tưởng ở chánh niệm

Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức

Chỉ muốn được nghe cung kính đứng

Nơi Ðại Luận Sư tự tại Phật

Nếu được nghe nói đều vui mừng

Giỏi hiểu các pháp trí quyết định

Sẽ được làm Phật độ quần sanh

Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín

Chắc thành đại trí nhứt thế gian

Lường biết câu cam lộ vi diệu

Người nầy thấy được khắp mười phương

Ai ở trong kiếp đời vị lai

Sẽ được làm Phật thường thế gian

Ðấng đại Ðạo Sư diệu ngôn từ

Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui

Nếu ở nơi đấng Ðại Thánh Hùng

Mà sanh kính tin lòng tôn trọng

Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ

Tất cả các ma chẳng động được

Nếu hay sanh tín được quyết định

Tức là Phật tử từ tâm sanh

Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp

Do đó đại chúng được trừ nghi

Nếu có ai đối với chúng sanh

Tâm từ che chở khắp thế gian

Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật

Bèn được an trụ Nhứt thiết trí

Ðấng vô thượng trăm phước trang nghiêm

Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi

Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn

Như Lai vì họ hiện tướng cười

Mong được nghe Phật lời thiện xảo

Âm thanh tám đức rất vi diệu

Trước tự được đến nơi thiện đạo

Sau hay dẫn dắt các quần sanh

Phật pháp vi diệu là như vậy

Phật tử an trụ ở trong ấy

Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt

Chắc được ở lâu tại thế gian”.

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

“Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười

Phật vì lợi ích các thế gian

Ông được phước đức vừa lòng mình

Phước ấy vô lượng chẳng hết được

Người trí mới hay hỏi đúng lúc

Do đó lợi lớn các chúng sanh

Ông cùng tất cả hàng đại chúng

Mừng vui một lòng nghe Phật nói

Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây

Ở trong pháp Phật đều không nghi

Tất cả mừng vui lòng tịnh tín

Dùng kệ khen ngợi Phật công đức

Trời ấy đã ở đời quá khứ

Cúng dường ngàn ức do tha Phật

Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy

Trong tất cả pháp đều không nghi

Do các nhơn duyên thuở xưa ấy

Nay nói được kệ tán thán Phật

Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán

Hiền kiếp tất cả chư Như Lai

Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ

Thành Phật đại lực na la diên

Giáo hóa chúng sanh bất khả tư

Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn

Lúc chư Ðại Thánh ấy thành Phật

Ðược danh hiệu Phật rất vi diệu

Nay ta vì ông nói hiệu ấy

Ðồng trong kiếp ấy đều làm Phật

Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai

Thảy đều cứu độ bất tư nghị

Na do tha chúng nhập Niết nàn

Các Như Lai ấy diệt độ rồi

Ðốt thân lưu bố những Xá lợi

Ðem Xá lợi ấy đều xây tháp

Ðầy trong quốc độ như rãi hoa

Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi

Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng

Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt

Thảy đều lợi ích các thế gian

Bất tư nghị do tha chúng sanh

Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi

Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn

Tam thế chư Phật đều tán thán

Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy

Thì được thiện căn thắng vi diệu

Sẽ được thành tựu đạo hữu học

Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng

Dường như vô lượng nan tư chúng

Ðều ở chỗ ta trồng căn lành

Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh

Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc

Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy

Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật

Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội

Ðều do cúng dường Xá lợi ấy

Ðược nghe lời Phật như vậy rồi

Tất cả đại chúng sanh hi hữu

Công đức thắng diệu có oai thần

Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ

Và hàng đại chúng khắp vui vẻ

Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề

Ðược biết Như Lai thế lực lớn

Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.


 

Phẩm

QUẢNG QUẢ THIÊN THỌ KÝ

Thứ hai mươi hai 

Bấy giờ có tám ức chúng trời Quảng Quả thấy A Tu La nhẫn đến trời Biến Tịnh cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa lòng vui mừng hớn hở nhập mỗi mỗi pháp môn, từ mỗi mỗi pháp môn được vô lượng môn, nơi tất cả pháp môn được vô lượng biện tài, bất đoạn biện tài, tương ưng biện tài , giải thoát biện tài, vô trước biện tài, vô ngại biện tài, vi tế biện tài, thậm thâm biện tài, chủng chủng biện tài, mỹ diệu biện tài, tương tục biện tài. Ở nơi các biện tài thảy đều biết rồi, chúng trời Quảng Quả ấy đối với Như Lai, kính tin tôn trọng mà bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn! Có đà la ni tên Vô Lượng Môn. Nếu có Bồ Tát tu tâp đà la ni vô lượng môn ấy, thì được các biện tài bất đoạn V.V…ấy, ở trong tất cả cảnh giới tâm chẳng mê hoặc. Các cảnh giới ấy không có một pháp nào chẳng phải đà la ni. Lúc đại Bồ Tát được đà la ni ấy, ở trong các pháp đều được đà la ni trí biện tài vô ngại. Lúc đại Bồ Tát an trụ đá la ni vô lượng pháp môn ấy thì nhập nơi ngũ ấm, nhập nơi thập nhị xứ, nhập nơi thập bát giới, nhập nơi các căn, nhập nơi tứ đế , thập nhị nhơn duyên, nhập nơi chúng sanh, nhập nơi phi chúng sanh , nhập nơi hữu, nhập nơi phi hữu, nhập nơi thủ tưởng, nhập nơi phi thủ tưởng, nhập nơi y nơi phi y,nhập nơi không nhập nơi ngã, nhập nơi tướng nơi phi tướng, nhập nơi nguyện nơi phi nguyện, nhập nơi hữu vi nơi vô vi, tất cả xứ như vậy được bất hoại biện tài.

Ðại Bồ Tát ấy nhập trong ngũ ấm được đà la ni. Nghĩa là sắc ấm ấy tức chẳng phải thành tựu, tại sao, vì không có chút sắc pháp được thành tựu, tại sao, vì địa giới tánh chẳng phải thành tựu, thủy giới hỏa giới và phong giới tánh đều chẳng phải thành tựu, tại sa, vì địa giới tánh ly vậy, nếu pháp không có thể tánh thì gọi là chẳng phải thành tựu, thủy hỏa và phong giới tánh tự ly, vì không thể tánh nên chẳng phải thành tựu. Sắc chẳng phải thành tựu như vậy, do vì chẳng phải thành tựu nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại và vị lai, tại sao, vì sắc chẳng phải pháp có nên là bất khả đắc. Nếu sắc đã bất sanh tức laé bất diệt, do vì bất sanh diệt nên tức là bất khả thuyét, lại còn có thuyết như vầy, những sắc quá khứ, sắc hiện tại, sắc vị lai, các sắc ấy hòa hiệp gọi là sắc ấm, sắc ấy thể tánh cũng bất khả đắc, nào có quá khứ hiện tại vị lai, thế nên sắc ấm chẳng phải là khả thuyết, thọ tưởng hành và thức cũng như vậy. Vì vậy nhập nơi ấm tức là nhập nơi đà la ni. Do vì nhập đà la ni nên ấm bất khả đắc, vì ấm bất khả đắc nên đà la ni cũng bất khả đắc, do đó mà nhập đà la ni bất khả đắc, chỉ có rieng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết, chỉ là thi thiết, chẳng phải ấm chẳng sắc, chẳng phải nhập nơi sắc, cũng chẳng đà la ni thể tánh khả đắc. Tại sao ?

Nghiã là ấm v.v…chă »ng phải là tác pháp, vì chẳng phải tải tác pháp nên không có tích tụ. Do vì tích tụ nên giả gọi là ấm, như thế gian nhiều vật liệu tích tụ lại giả gọi là thành là nhà v.v…Các sắc ấy tánh bất khả đắc, không có tích tụ, vì không tích tụ nên là không sắc , cũng hông sắc ấm. Thọ tưởng hành và thức cũng như vậy, tánh bất khả đắc không có tích tụ, vì không tích tụ nên không thọ tưởng hành thức, cũng không thọ tưởng hành thức ấm. Nhập nơi các ấm ấy phải biết như các ấm.

Nhập nơi nhãn rồi là ai nhập, nghĩa là khổ nhập. Gì là nhãn ? Ðó là thanh tịnh tứ đại tạo nên sắc gọi đó là nhãn. Những gì là tư đại ? Ðó là thanh ti(nh địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới, địa giới ấy tánh tự ly, đã là tánh tự ly thì là pháp thể bất khả đắc, nó là chẳng phải thành tựu. Như vậy thủy hỏa và phong giới tánh đều tự ly, vì pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải thành tựu. Nhãn nhập chẳng phải thành tựu như vậy nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Tại sao ?Vì nhãn nhập chẳng phải là vật. Vì chẳng phải là vật nên chẳng sanh chẳng diệt. Nếu chẳng sanh chẳng diệt tức là bất khả thuyết. Như vậy nhãn chẳng sanh diệt, nhập cũng chẳng sanh diệt, vì chẳng sanh diệt nên cũng bất khả thuyết. Phải hiểu biết như vầy : Chỉ là riêng danh, riêng dụng, riêng giả, chỉ là thế tục, chỉ là ngôn thuyết. Danh ấy và danh thể cũng tư( tánh ly. Tại sao ? Vì không có một pháp gọi là nhãn, gọi là nhập, gọi là khổ. Vì danh bất khả đắc nên nhãn nhập cũng bất khả đắc.

Vì nhãn bất khả đắc nên tức là đà la ni nhập. Ðà la ni nhập nầy cũng bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly vậy, chỉ là danh dụng giả, chỉ là thế tục, ngôn thuyết thi thiết. Vì thế nên do nhãn nhập mà được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài.

Nên biết nhĩ tỉ thiệt thân ý sắc thanh hương vị xúc pháp cũng đều như vậy.Nhập nơi giới ấy được đà la ni nhãn, nhãn thể bất khả đắc, giới thể bất khả đắc. Tại sao ? Vì nhã ly nhãn tánhvậy, vì giới ly giới tánh vậy. Bởi pháp thể bất khả đắc nên nó chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Chẳng thành tựu thì là chẳng sanh chẳng diệt. Vì chẳng sanh diệt nên nó chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai, chỉ là dan h dụng giả, chỉ là thế tục ngôn thuyết thi thiết. Danh ấy ly danh tự tánh, nhẫn đến thi thiết ly thi thiết tự tánh. Nếu pháp không tự tánh bất khả đắc tức là chẳng phải vật. Ðã chẳng phải vật thì chẳng phải thành tựu. Ðã chẳng phải thành tựu thì chẳng sanh chẳng diệt. Bởi bất sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. Nếu chẳng nhiếp ở danh ấy tức chẳng phải tướng cũng chẳng phải tưởng, chẳng phải dụng, chẳng phải giả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải khả thuyết, chẳng phải lai chẳng phải khứ, chẳng phải được nói cho người, chẳng phải được hiển thị, chẳng phải được biết, chẳng phải được rõ, chẳng phải đen, chẳng phải trắng, chằng phải nhà cửa. Vì ly nhà cửa vậy, vì chẳng phải đến, chẳng phải được đến vậy, vì chẳng phải được, chẳng phải bị được vậy, vì chẳng phải chứng, chẳng phải được chứng vậy, chẳng phải phàm phu cũng chẳng phải phàm phu địa, chẳng phải Thanh Văn cũng chẳng phải Thanh văn địa, chẳng phải Duyên Giác cũng chẳng phải duyên Giác địa, chẳng phải Bồ Tát cũng chẳng phải Bồ Tát địa, chẳng phải Phật cũng chẳng phải Phật địa, chẳng phải địa cũng chẳng phải phi địa, đây tức là chơn như, chẳng dị như, chẳng phải phi như, tịch diệt vô tướng, chỉ riêng dụng riêng giả. Nói rằng Như Lai chỉ riêng vì thế tục nên nói danh Như Lai, chẳng phải đệ nhứt nghĩa mà có Như Lai vậy. Tại sao ? Vì pháp ấy bất khả đắc nên không có Như Lai ở nơi giới ấy mà nhập. Phải nên nhập nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý giới pháp giới ý thức giới như vậy. Tất cả giới khác cũng phải biết như vậy. Phải nên rộng nhập pháp giới như vậy.

Bạch Thế Tôn ! Pháp giới ấy, lúc nói rằng ấm mà chẳng hư hoại bổn tánh của pháp giới ấy, lúc nói nhập lúc nói giới, lúc nói tứ đế, lúc nói thập nhị nhơn duyên, cũng đều chẳng hoạibổn tánh thể của pháp giới ấy.

Pháp giới tùy theo chỗ được nói tất cả các pháp kiến lập danh tự, đèu chẳng hoại thể tánh của pháp giới ấy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thi như địa tùy theo chỗ nó ở mà làm danh tự sai khác, nhưng chẳng hư hoại bổn tánh của địa giới ấy. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở làm danh tự sai khác mà chẳng hoại bổn tánh pháp giới. Thi như tủy hỏa phong giới cũng vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Thí như hư không tùy theo chỗ nó ở có tác dụng sai khác mà chẳng hoại thể tánh hư không. Cũng vậy, pháp giới tùy theo chỗ nó ở có tác dụng danh tự sai biệt mà chẳng hoại thể tánh pháp giới.
Bạch đức Thế Tôn ! Lúc nhập các căn tức là nhập pháp giới? Nói các căn lá nhãn căn nhĩ căn tỷ căn thiệt căn than căn và ý căn, cùng nam nữ căn mạng căn, lạc căn khổ căn hỉ căn ưu căn xả căn, tín căn tinh tấn căn niệm căn định căn huệ căn, vị tri dục tri căn, tri căn tri dĩ căn.

Nhãn ấy, nhãn thể bất khả đắc. Căn ấy, căn thể bất khả đắc. Tại sao ?Vì nhãn ấy ly nhãn tự tánh vậy. Ðã ly tự tánh thì không pháp thể. Bởi pháp không thể tánh thì nó chẳng phải vật. Bởi chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựu. Bởi chẳng thành tựu nên nó chẳng sanh. Bởi chẳng sanh nên chẳng diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng thể nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế chẳng sanh diệt thì nó chẳng phải nhãn cũng chẳng phải nhãn căn thì làm sao có dụng, phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn !Thí như không quyền hư dối không có vật chỉ có danh tự chỉ có ngôn thuyết. Ở trong địa nhứt nghĩa không quyền cũng không có. Nhãn và nhãn căn ấy dường như không quyền hư vọng chẳng phải thiệt mà hiện tướng hư giả dối gạt phàm phu, chỉ có danh tự thi thiết ngôn thuyết, ở trong đệ nhứt nghĩa nhãn và nhãn căn đều bất khả đắc.

Bạch đức Thế Tôn ! Vì như vậy nên ngườo được Nhứt thiết trí rồi vì độ chúng sanh mà nói tên là căn. Các căn ấy, ở đệ nhứt nghĩa vì tự tánh ly nên căn thể đều không. Vì pháp ấythể kho-ng nên dụng cũng hư vọng chẳng có chẳng thiệt dối gạt phàm phu. Vì ly tự tánh nên chẳng sanh diệt. Vì chẳng sanh diệt nên chẳng được nói nó là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở trong tam thế không có thié nó không có danh không có tướng, chẳng phải được nói, chẳng phải được vì người khác nói, chẳng phải sanh chẳng phải bị sanh, chẳng phải đã biết sẽ biết, chẳng phải đã nghe sẽ ngh, chẳng phải biết chẳng phải biết chẳng phải bị biết, chẳng phải đã chứng sẽ chứng, chẳng phải đã được sẽ được, chẳng phải đã thấy sẽ thấy, chẳng phải đã đến sẽ đến, tại sao , vì nó chẳng phải có vậy.
Bạch đức Thế Tôn ! Thí như có người chiêm bao được vui mừng cười nói mớ đi chơi, người ấy sau khi thức dậy ghi nhớ sự vui chơi trong mộng mà tìm chẳng thấy chẳng được. Người ấy đương lúc chiêm bao sự vui chơi ấy còn chẳng có thiệt huống là lúc thức dậy, không bao giờ cảnh mộng ấy lại hoặc thấy hoặc được.

Bạch đức Thế Tôn ! Các căn như vậy giống cảnh vui chơi trong mộng thiệt bất khả đắc. Vì thế nên tất cả các pháp thể tánh đều bất khả đắc. Vì là bất khả đắc nên chẳng thể nói là quá khứ hiện tại vị lai. Nếu ở nơi tam thế thế bất khả đắc thì nó chẳng thể nói được. Với tất cả các căn phải biết như vậy.

Bạch đức Thế Tôn nhập pháp giới là nhập tất cả pháp, nhập tất cả pháp là nhập pháp giới. Bạch đức Thế Tôn !Nhập pháp tứ đế là nhập pháp giới. NHững gì là tứ đế ? Ðó là khổ tập diệt đạo.

Ðức Thế Tôn cũng nói tất cả các pháp thảy đều là không, chẳng phải chúng sanh , chẳng phải mạng, chẳng phải nhơn, chẳng phải tưởng, chẳng phải tướng. Chúng tôi ở nơi pháp ấy chăẳng có nghi lự.

Bạch đức Thế Tôn ! Vì không chúng sanh nên cũng không có khổ. Tại sao ? Vì chúng sanh không nên khổ đế cũng không. Tại sao ?Vì không có nhơn như vậy nên không có quả như vậy. Vì không có tập nên diệt đế cũng không. Tại sao ? Vì không có đạo mà chẳng đoạn tập vậy. Bạch đức Thế Tôn ! Ðạo quả ấy là diệt đế. Phiền não tập kia bất khả đắc nên đoạn phiền não diệt cũng bất khả đắc. Do diệt bất khả đắc nên đạo cũng bất khả đắc. Không khi nào có đạo như vậy mà không có quả của nó. Bốn thánh đế ấy chỉ là phân biệt hư vông chẳng phải có. Bởi chẳng phải có nên chẳng thể nói được là quá khứ hiện tại vị lai.Nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì nó chẳng phải sanh chẳng phải diệt, chẳng phải tướng chẳng phải tưởng, chẳng phải sắp bày chẳng phải bị sắp bày, chẳng phải nêu chỉ chẳng phải bị nêu chỉ, chẳng phải hiển hiện chẳng phải bị hiển hiện, chẳng phải ngũ ngôn chẳng phải bị ngũ ngôn, chẳng phải ngôn từ chẳng phải bị ngôn từ; chẳng no&i chẳng phải bị nói; chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải biết chă”ng phải bị biết, chẳng phải rõ chẵng phải bị rõ, chẳng phải lường chẳng phải bị lường, chẳng phải thấu chẳng bị thấu, chẳng phải đến chẳng phải bị đến, chẳng phải được chẳng phải bị được, chẳng phải nghe chẳng phải bị nghe, chẳng phải thấy chẳng phải bị thấy, chẳng phải đối chẳng phải bị đối, chẳng phải chứng chẳng phải bị chứng, chẳng phải trắng chẳng phải đen, chẳng phải sáng chẳng phải tối, chẳng phải đến chẳng phải đi, chẳng phải cạn chẳng phải sâu, chảng phải trong chẳng phải đục, chẳng phải sợ chẳng phải an.chẳng phải trói chẳng phải mở, chẳng phải ghét chẳng phải thương, chẳng phải phiền não chẳng phải thanh tịnh, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải đường sá chẳng phải chẳng đường sá, chẳng phải hoại chẳng phải chẳng hoại, chẳng phải nhiếp thọ chẳng phải chẳng nhiếp thọ, chẳng phải sanh tử chẳng phải chẳng sanh tử, chẳng phải được chẳng phải chẳng được, chẳng phải chúng sanh chẳng phải chẳng chúng sanh, chẳng phải thọ mạng chẳng phải chẳng thọ mạng, chẳng phải ngã chẳng phải chẳng ngã, chẳng phải vật chẳng phải chẳng vật, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải chẳng tướng,, chẳng phải nguyện chẳng phải chẳng nguyện, chẳng phải y chẳng phải chẳng y, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải đoạn chẳng phải thường, chẳng phải tà chẳng phải chánh, chẳng phải thiệt chẳng phải vọng, chẳng phải vọng tưởng chẳng phải chẳng vọng tưởng, chẳng phải xứ chẳng phải chẳng xứ, chẳng phải nhà chẳng phải chẳng nhà, chẳng phải trí chẳng phải chẳng trí, chẳng phải xả chẳng phải tu, chẳng phải sanh tử chẳng phải Niết bàn, chẳng phải giác chẳng phải chẳng giác, chẳng phải cảnh giới phàm phu chẳng phải cảnh giới Thanh Văn chẳng phải cảnh giới duyên giác chẳng phải cảnh giới Bồ Tát chẳng phải cảnh giới Phật, chẳng phải cảnh giới chẳng phải chẳng cảnh giới, chẳng phải tác chẳng phải bất tác. Nhập vào đế như vậy tức lànhập vào pháp giới. Nhập pháp giới rồi thì được đà la ni. Ðược đà la ni rồi thì được biện tài. Nhập vào mười hai nhơn duyên tức lá nhập vào pháp giới. Vô minh duyên hành hành duyên thức thức duyên danh sắc duyên sắc duyên lục nhập lục nhập duyên xúc xúc duyên thọ thọ duyên ái ái duyên thủ thủ duyên hữu hữu duyên sanh sanh duyên lão tutủ ưu bi khổ não, khối lớn nhiều khổ lớn như vậy. Vô minh diệt thì hành diệt nhẫn đến sanh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, khối lớn nhiều khổ diệt.

Bạch đức Thế Tôn ! Vô minh ấy, vô minh thể bất khả đắc, tại sao, vì tánh tự ly. Nếu pháp không có thể tánh thì nó chẳng phải vật. Vì chẳng phải vật nên chẳng phải thành tựuBởi chẳng phải thành tựu nên chẳng phải sanh chẳng phải diệt. Bởi chẳng sanh diệt nên chẳng phải quá khứ hiện tại vị lai. nếu ở trong tam thế bất khả đắc thì kho-ng có danh không có hình không tướng không tưởng cũng chẳng sai biệt. Chỉ là riêng danh riêng giả riêng dụng, chỉ là thế tục chỉ là ngôn thuyết, vì giáo hóa tất cả phàm phu chúng sanh. Vô minh ấy ở trong đệ nhứt nghĩa thiệt bất khả đắc. Bởi bất khả đắc nên chẳng phải dụng sai biệt cũng chẳng thể nói được

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu chỉ là chỉ riêng danh nhẫn đến chỉ riêng thi thiết thì nó chẳng phải thiệt chỉ là hư vọng ngôn thuyết phân biệt, giác quán chẳng phải định chỉ lá hí luận. Vô minh ấy nếu không có tự tánh thì làm sao sanh được hành. Vì vô minh đã không nên hành cũng chẳng sanh, bởi chẳng sanh nên nó tức là bất lão bất bịnh bất tử, chẳng lưu chuyển tức là bất sanh. Nếu chẳng sanh thì làm sao có lão tử. Nếu chẳng sanh chẳng tử tức là chư Phật Bồ đề quá khứ hiện tại vị lai chỉ là thế tục danh tự chẳng phải đệ nhứt nghĩa. Nói rằng vô minh đó tức là Bồ đề, các chỉ kia cũng vậy. Nhập mười hai nhơn duyên như vậy phải biết tức là nhập nơi pháp giới.

Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai bất sanh tất cả pháp cũng bất sanh , vì thế tất cả pháp tức là Như Lai. Như Lai bất diệt tất cả pháp cũng bất diệt, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai , Như Lai vô tướng tất cả pháp cũng vô tướng, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Nói tóm lược, vô tướng bất khả đắc như vậy chẳng phải cấu chẳng phải tịnh, chẳng phải yêu chẳng phải ghét, pháp giới chẳng thể rõ cũng chẳng thể biết.

Bạch đức Thế Tôn ! Chơn như tức là Như Lai, tất cả các pháp tức là chơn như, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai

Bạch đức Thế Tôn ! Thiệt tế tức là Như Lai, tất cả pháp tức là thiệt tế, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn ! Tùy trong pháp nào tức là có Như lai, trong pháp ấy tức là có tất cả pháp, vì thế nên tất cả pháp tức là Như Lai.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai được Vô thượng Bồ đề, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai bất nhị, Bồ đề cũng bất nhị, bất nhị ấy chẳng có thể giác ngộ bất nhị vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có người nói Như Lai chuyễn pháp luân vô thượng, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng phải tiến thối vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người,nói Như Lai độ vô lượng chúng sanh, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì tất cả pháp thiệt không có chúng sanh nên không có ai được diệt độ vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói rằng Như Lai lợi ích vô lượng chúng sanh, người ấy là có kiến chấp. Tại sao ? Vì Như Lai chẳng vì lợi ích hay chẳng lợi ích chúng sanh mà xuất thế vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có chúng sanh ở đời vị lai nói rằng Như Lai xả bỏ thọ mạng, chúng sanh ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có nhiếp thọ cũng không có xả bỏ vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người nói Như Lai nhập vô dư Niết bàn, người ấy là có chấp kiến. Tại sao ? Vì pháp giới không có sanh tử cũng không có Niết bàn vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Nếu lại có người ở nơi pháp của tôi nói mà có thể quyết định biết, người ấy chẳng còn thối chuyễn nơi Vô thượng Bồ đề.

Bạch đức Thế Tôn ! Giả sử pháp giới  có biến khác, các thiện nam tử thiện nữ nhơn có thể tin như vậy, tất định sẽ giác ngộ Vô thượng Bồ đề không có biến đổi ».

Tám ức chúng trời Quảng Quả ở nơi Thế Tôn diễn nói pháp của mình được chứng rồi đầu mặt lễ chưn Phật,  nhiễu Phật ba vòng đứng qua một phía chắp tay đồng thanh nói kệ tán thán đức Phật :

« Kính lễ Thiện Thệ đấng biết pháp

Ðại Ðạo Sư na la diên lực

Thắng Mâu Ni thương yêu tất cả

Phương tiện thị hiện nơi chơn thiệt

Ðã tự biết rõ tất cả pháp

Như thiệt hiển thị các thế gian

Cúi lạy thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Pháp vi diệu chơn thiệt như vậy

Phật nói tương ưng không có khác

Thế Tôn đại Y Vương vô thượng

Khiến chúng sanh pháp nhãn thanh tịnh

Khai diễn tám thứ đường chơn chánh

Vì được đại Bồ đề Vô thượng

Quy kính thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Hiễn thị Bồ đề đạo chánh chơn

Quyết định xu hướng đại Niết Bàn

Chứng được Vô thượng thắng Bồ đề

Tịch diệt an ổn rất kiên cố

Ðộ thoát nhiều ức na do tha

Chúng sanh luân hồi khổ sanh tử

Ðãnh lễ thân vô lượng công đức

Vô Thượng Sĩ trí huệ tối thắng

Quan sát ngũ ấm đều không vô

Ấm thể rốt ráo bất khả đắc

Ấm ấy tức thể ly chẳng có

Chỉ gạt những chúng sanh phàm ngu

Thế gian nơi đây bị trói buộc

Như khỉ vượn kia bị dính nhựa

Người trí nơi đây được giải thoát

Du hành không ngại như gió trống

Các giới tức thể tánh tự không

Tất cả người trí nói như vậy

Không ấy cũng không có tự tánh

Cứu cánh cầu nó bất khả đắc

Phàm phu nơi đây đều bị trói

Do vì chẳng biết tánh chơn thiệt

Người trí quán sát được giải thoát

Nơi tam giới kia vô sở trước

Các nhập không thể tự không tịch

Tất cả người trí nói như vậy

Như nắm tay không giả chẳng thiệt

Dối gạt hàng chúng sanh ngu tối

Phàm phu vọng sanh lòng thủ trước

Ðều do nơi pháp sanh nghi hoặc

Trụy lạc sanh tử bị tán hoại

Như các nhà buôn chìm biển lớn

Các căn ấy tự nó tự không

Cứu cánh suy tìm bất khả đắc

Ví như trong gương hiện mặt mắt

Tượng ấy không thiệt cứu cánh không

Phàm phu vô trí chấp tượng ấy

Chánh vì chẳng biết pháp chơn thiệt

Dường như bầy chim vào lưới bẫy

Cũng như trong vực cá mắc câu

Chúng sanh không thể lìa tướng sanh

Chơn thiệt tìm cầu bất khả đắc

Ví như trên vách vẽ hình tượng

Cứu cánh không tướng chúng sanh thiệt

Phàm phu vô trí nên thử trước

Ðều do chẳng biết nghĩa chơn thiệt

Người trí quan  sát được giải thoát

Ví như chim sanh ra khỏi vỏ

Nhơn duyên sanh pháp đều vô thường

Tất cả không tịch lìa phan duyên

Ví như trong mộng hưởng thọ vui

Hư dối gạt gẫm phàm phu mê

Ngu si vô trí bị nó trói

Do chẳng tư lương vọng phân biệt

Người trí quan sát được giải thoát

Như các chim khôn thoát lồng lưới

Như Phật công đức bất tư nghị

Tất cả các pháp cũng như vậy

Các pháp vô tướng như Mâu Ni

Pháp thể tịch diệt như Niết bàn

Các pháp vô y như Như Lai

Nơi tam giới kia chẳng thủ trước

Vì thế tất cả người thành Phật

Ðều do được biết nghĩa nầy vậy

Các pháp vô bố như Thế Tôn

Chẳng khởi tưởng thân mình thân người

Các pháp nan tư như Ðạo Sư

Chỉ Phật biết được dắt quần sanh

Pháp vô phân biệt như Thiện Thệ

Chẳng phải tâm cảnh của phàm phu

Là diệu cảnh giới của Như Lai

Chỉ Phật Ðại Thánh biết rõ được

Nếu có vô trí nói thế này

Phật chứng Vô thượng đại Bồ đề

Nếu lại có người nói như vầy

Thế Tôn đã chuyễn diệu pháp luân

Nếu lại có người nhận định rằng

Thiện Thệ đã độ vô lượng chúng

Họ đều bị kiến chấp trói buộc

Vì họ chẳng biết tánh chơn thiệt

Nếu người bảo Phật nói lời nầy

Sát hại hành ấm và cùng mạng

Hoặc nói Thập Lực nhập Niết bàn

Ðã lợi ích vô lượng chúng sanh

Tất cả người ấy đều chấp kiến

Bị trói chặt trong rọ của ma

Chẳng hiểu biết được pháp chơn như

Vì chẳng biết nên chẳng biết Phật

Nếu người khéo biết phải chẳng phải

Họ biết rõ được Ðại Ðạo Sư

Sẽ được khối vô lượng công đức

Thành Phật thương xót các thế gian

Ðây là chơn như không biến đổi

Tất cả các pháp lìa nghi hoặc

Ðấng thắng vô thượng trong Trời Người

Chúng tôi đã biết nghĩa như vậy

Tám ức chúng trời Quảng Quả nầy

Nơi pháp thảy đều được biết hết

Ðối Phật Ðạo Sư tự diễn nói

Hiện nội tâm mình tin hiểu rồi

Tất cả mừng vui không nghi lự

Ðều tự thấy mình sẽ thành Phật

Ðây là diệu pháp của Như Lai

Họ tự nhận lãnh Phật thọ ký ».

Ðức Thế Tôn biết chúng trời Quảng Quả có đủ thâm tín, ở trong Phật pháp quyết định không nghi, vì muốn đại chúng trồng căn lành nên hiện mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch đức Phật

« Ðạo sư trí huệ núi công đức

Chẳng phải không nhơn mà mỉm cười

Tôi từng nơi Phật thân tự nghe

Thế Tôn mỉm cười tất có cớ

Như Lai hiện tướng mỉm cười ấy

Khiến chúng đều thọ vui thanh tịnh

Trời Người Tu La đại Ðạo Sư

Ngưỡng mong diễn nói nhơn duyên cười

Nay thấy Như Lai từ nơi miệng

Hiện tướng mỉm cười rất thanh lương

Các chúng hội đây đều hoài nghi

Nhứt tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai

Ðại bi tối thắng Thiên Nhơn Sư

Xin nói cớ cười rất hi hữu

Thế gian nếu được nghe Phật nói

Quyết định trừ hết lòng nghi hoặc

Tám ức chúng trời Quảng Quả ấy

Thảy đều diễn nói tự thọ ký

Do công đức gì được quả gì

Xin nói thành Phật sự thần thông

Khai diễn phạm âm rất vi diệu

Ðể khắp trừ dứt chúng sanh nghi

Tất cả đại chúng nghe Phật nói

Thảy đều hớn hở rất vui mừng

Ðại chúng chắp tay đều nhứt tâm

Tịnh tín chiêm ngưỡng cung kính đứng

Chúng trời Phật tử đều tư duy

Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề

Các chúng hội đây có nghi hoặc

Xin đức Như Lai trừ dứt cho

Chắc sẽ được trí biết phải chẳng

Ðầy đủ thành tựu Nhứt thiết trí

Ðược nghe Như Lai tiếng tám đức

Chúng trời không ai  chẳng vui mừng

Sẽ được hộ trì Như Lai giáo

Tùy thuận chánh pháp như thuyết hành

Quan sát biết lòng chúng trời rồi

Ðại trí Vô thượng nguyện giải nói

Do đó đại chúng lòng mừng vui

Ở trong Phật pháp được tin hiểu

Nay nơi Ðạo Sư nguyện được nghe

Chúng trời quá khứ dã tu hành

Nếu nhờ Như Lai giải nói rồi

Sở nguyện thảy đều được đầy đủ

Chúng trời Quảng Quả như pháp hành

Chắc được thành tựu Nhứt thiết trí

Sẽ độ thế gian các chúng sanh

Hiển thị thể tánh pháp chơn như ».

Ðức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng :

« Lành thay Mã Thắng khéo biết giờ

Nay ông hỏi Phật thiệt đúng lúc

Phật vì chúng trời Quảng Quả ấy

Ở trước đại chúng hiện mỉm cười

Nay sẽ vì ông phân biệt nói

Ðều phải nhứt tâm cùng lắng nghe

Nghĩa nhơn duyên của tướng mỉm cười

Ông và đại chúng sẽ được rõ

Như Lai đầy đủ Nhứt thiết trí

Quan sát nhơn duyên có ba thứ

Lưỡng Túc Thế Tôn chánh quán rồi

Liền hiện mỉm cười thị thế gian

Có người thích ở nơi Niết bàn

Ít trí cạn nhỏ cầu Thanh Văn

Lại có người thích ở yên lặng

Chỉ cầu Bồ đề Bích Chi Phật

Lại có thích cầu đại Ðạo Sư

Thành Phật đại lực na la diên

Phật thấy chúng ấy thâm tín rồi

Tùy họ sở nguyện mà độ thoát

Vì cầu Thanh Văn mà thị hiện

Phải biết là tướng cười tối hạ

Phải nên biết Phật trung phẩm cười

Vì người Bích Chi mà thị hiện

Ông phải biết cười thượng phẩm đây

Vì chúng trời nầy thọ ký Phật

Phật giải nói ba nhơn duyên cười

Ðó là tối hạ và trung thượng

Khéo hiểu thế gian thắng Ðạo Sư

Thị hiện mỉm cười hiển thoại tướng

Phật biết chúng sanh  muốn ba thừa

Nguyện ưa cầu chứng ba thánh quả

Vì cầu Thanh Văn mà hiện cười

Tia sáng mỉm cười vào nơi chưn

Vì cầu Bích Chi Phật thị hiện

Phải biết sáng cười nhập vào rún

Vì thọ ký Vô thượng Bồ đề

Tia sáng cười nhập vào đảnh Phật

Mã Thắng nầy Ông nên ghi rõ

Nhơn duyên mỉm cười có ba thứ

Vừa rồi Phật hiện tướng sáng cười

Sáng ấy nhập vào đảnh của Phật

Phải biết mỉm cười hiện sáng ấy

Ðều vì thọ ký Vô Thượng Giác

Nay Phật sẽ lại vì ông nói

Mỉm cười lại có ba nhơn duyên

Lành thay Mã Thắng và đại chúng

Một lòng lặng ý đều lắng nghe

Hiện tiền mỉm cười vì cầu Phật

Tia sáng phóng ra nhập vào đảnh

Tia sáng có lúc dừng  ngang lưng

Giây lát mất là vì Duyên Giác

Phật hiện mỉm cười phóng tia sáng

Tạm thời dừng ở nơi chưn Phật

Sáng ấy theo thừa mà biến hiện

Phải biết là vì người Thanh Văn

Nay Phật lại nói cớ mỉm cười

Mã Thắng nghe kỹ có ba thứ

Ðạo Sư phóng ra các tia sáng

Ra rồi vòng quanh nơi mình Phật

Tia sáng ra rồi đều rẽ thưa

Trở lại tụ mau quanh lưng Phật

Lần lần trở lại thêm lớn rộng

Cũng lại vòng quanh bên hữu Phật

Có sáng đầu dừng sau rộng lớn

Lần lần hữu nhiễu quanh thân Phật

Sáng ấy đều khắp hết thân Phật

Cùng đồng với thân không sai khác

Sáng ấy trang nghiêm thân tướng Phật

Rực rỡ dường như khối hoàng kim

Mâu Ni phóng sáng từ miệng cười

Phải biết sáng ấy ký quốc độ

Có sáng phóng ra như lọng báu

Che khắp trên thân đức Thế Tôn

Có sáng như hoa ở hư không

Sáng ấy chói rỡ thân Ðạo Sư

Sáng ấy tất cả đều hữu triền

Ba vòng quanh ngoài thân Nhu Lai

Phải biết sáng áy ký thọ mạng

Xuất thế đại trí hiện thoại tướng

Ba thứ mỉm cười phóng sáng áy

Thiện Thệ theo căn hiện sai khác

Nay đây Mã Thắng cần nên biết

Ðó là ba thứ nhơn mỉm cười

Thế gian Ðạo Sư hiện thoại tướng

Khéo biết chúng sanh sâu tin thích

Nay ở trong pháp của Như Lai

Các ông nghe đây được trừ nghi

Tám ức chúng trời Quảng Quả đây

Hiện tiền trước Phật sâu kính tin

Nói rộng chánh pháp môn vi diệu

Ðều riêng cõi khác được thành Phật

Thọ mạng đầy đủ lâu vô lượng

Trải do tha kiếp trụ thế gian

Thế nên Như Lai hiện thoại tướng

Ánh sáng rộng lớn đủ năm màu

Chúng trời Quảng Quả thuở quá khứ

Ba mươi sáu a tăng kỳ kiếp

Thường được gặp gỡ chư Thế Tôn

Thân thừa cúng dường tu pháp lành

Lại trãi thời gian ba mươi sáu

A tăng kỳ kiếp rộng tu hành

Chư Ðại Sĩ này trụ thế gian

Cúng dường Như Lai chưa từng mỏi

Vì tư duy cứu độ các chúng sanh

Nên luôn siêng tu cúng dường Phật

Cúng dường Thế Ttôn đúng pháp nghi

Mong cầu Vô thượng đại Bồ đề

Chúng trời Quảng Quả đời vị lai

Sẽ làm được Phật na la diên

Thành hiệu Mâu Ni núi công đức

Kiếp ấy hiệu là Thắng Kim Tràng

Chư Như Lai ấy đều riêng ở

Trong quốc độ trang nghiêm thanh tịnh

Phật ấy đồng hiệu Nhựt Quang Luân

Ðầy đủ vô lượng khối công đức

Mỗi mỗi Như Lai đều trụ thế

Lâu đến vô lượng do tha kiếp

Chư Thiện Thệ ấy họp chúng hội

Vô lượng vô biên chẳng đếm được

Lúc mỗi mỗi Ðạo Sư thành Phật

Chỗ có hàng đệ tử Thanh Văn

Dầu Phật ở trong do tha kiếp

Tính đếm số ấy củng chẳng hết

Nếu tất cả toán sư cùng họp

Cũng tính chẳng hết số chúng ấy

Thuở ấy chỗ có chư Bồ Tát

Số đông gấp bội chúng Thanh Văn

Thảy đều phát tâm ở Phật thừa

Nguyện sẽ thành Nhứt thiết trí

Ở trong quốc độ thanh tịnh ấy

Ðều sẽ được thành Phật thập lực

Chư Bồ Tát ấy chỗ tu hành

Ðồng như Bỗn Sư không sai khác

Chư Như Lai ấy diệt độ rồi

Chánh pháp hưng thạnh ở đời lâu

Trải đến mười hai na do kiếp

Ðược chư Phật tử siêng hộ trì

Lúc pháp chư Phật ấy hưng thạnh

Kẽ phát tâm vô thượng Bồ đề

Số ấy nhiều hơn cát sông Hằng

Thảy đều siêng tu Bồ Tát hạnh

Chư Thiện Thệ ấy diệt độ rồi

Chỗ có tất cả chúng Thanh Văn

Chúng ấy thảy đều được Niết bàn

Nhiều hơn số cát nơi đại hải

Chánh pháp của chư Thế Tôn ấy

Ðầy đủ hưng thạnh nơi Thế gian

Lợi ích vô lượng các chúng sanh

Giáo pháp Phật ấy rất hưnh thạnh

Nghe Phật giải nói  như vậy rồi

Tất cả đại chúng đều tin hiểu

Quyết sẽ được thành Phật Thế Tôn

Rộng làm lợi ích các quần sanh

Bấy giờ chúng hội đều mừng vui

Ðầu mặt lễ lạy chưn Như Lai

Cung kính vô lượng  nơi Thiện Thệ

Ðúng pháp cúng dường Thiên Nhơn Sư

Thế nên hớn hở phát tinh tấn

Dường như cứu đầu đang bi cháy

Thường phải thân cận thiện tri thức

Siêng tu  Bát Nhã Ba la mật

Ðây là hạnh thắng tấn thấy thiệt

Tỳ Kheo các ông phải tu tập

Sẽ thành Vô thượng Lưỡng Túc Tôn

Công đức như núi lợi thế gian ».

 

--- o0o ---


Xem dưới dạng văn bản thuần túy