× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 16 BỒ TÁT KIẾN THIỆT THỨ MƯỜI SÁU 2

Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.

Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.

Thích Đề Hoàn Nhơn Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.

Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như Lai và Tỳ Kheo Tăng.

Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chưn Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chưn Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng :

"Trong hư không thanh tịnh

Vầng trăng tròn đêm rằm

Vượt hơn các tinh tú

Ánh sáng riêng chói rỡ

Phật như trăng tròn sáng

Diệt tối trừ ba cấu

Hay siêu các ngoại đạo

Dường trăng giữa hư không

Mặt nhựt ngàn quang minh

Hay trừ các tối tăm

Vượt hơn ánh sáng trăng

Làm nở ao hoa sen

Phật quang hơn mặt nhựt

Chiếu khắp cõi Đại Thiên

Như Lai hay nở bày

Rừng hoa sen Thanh Văn

Thiên Chúa Kiều Thi Ca

Ngồin tại nhà Thiện Pháp

Vượt hơn chúng chư Thiên

Chày kim cương chói rực

Thập lực núi công đức

Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn

Vượt hơn các ngoại đạo

Dường như Thiên Đế Thích

Tu Dạ Ma Thiên Vương

Được chư Thiên cúng dường

Ở trong hàng Thiên chúng

Chói sáng ngồi bửu tọa

Thập lực oai vô biên

Vượt hơn các ác đạo

Đức vô úy quang minh

Nói rõ Bát chánh đạo

Như Đâu Xuất Thiên Vương

Chúng chư Thiên vây quanh

Vượt hơn các Thiên chúng

Đức lành mà chói sáng

Điều Ngự Thầy Trời Người

Được Bát Bộ chúng dường

Vượt hơn các thế gian

Vô úy nói pháp rõ

Như Hóa Lạc Thiên Vương

Ở tại trong thiên cung

Vượt hơn chúng chư Thiên

Công đức riêng sáng rõ

Phật hơn các thế gian

Rời được khỏi ba cõi

Hay điều vua chưa điều

Đủ thập lực sáng chói

Như Tự Tại Thiên Vương

Ở tại trong thiên cung

Vượt hơn các Thiên chúng

Đức lành mà rạng rỡ

Phật quang minh như vậy

Đầy đủ thập lực hành

Vượt hơn chúng Trời Người

Do công đức lành trước

Như Đại Phạm Thiên Vương

Vượt hơn các Phạm chúng

Sáng rực lời ngọt hay

Hiển bày đường Bát chánh

Như Lai hơn Phạm Vương

Vua trong chúng Sa Môn

Quang minh soi ba cõi

Chuyển pháp luân tứ đế

Chúng tri kiến họp xong

Trời Rồng Người nghe pháp

Vua tối thắng Trời Người

Tuyên nói đường Bát chánh

Hư không đo lường được

Biển lấy bình đong hết

Núi Tu Di cân được

Phật đức khó biết được".

Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng : "Nầy các Ngài ! Như mặt nhựt sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhựt sè mọc chẳng lâu. Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhứt thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhứt thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự".

Các Thích chủng tâu rằng : "Lành thay Đại vương ! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong".

Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.

Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhứt.

Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ : ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo. Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.

Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng : trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.

Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng : "Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao ? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác".

Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

"Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia

Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc

Tối Thắng Nhơn Vương hôm nay đến

Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói

Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn

Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ

Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra

Nhơn Vương bửu tạng và các xe

Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh

Y ohục người theo đều màu xanh

Giày mang dao đeo thảy đều xanh

Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh

Người áo xanh cầm phan lọng xanh

Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ

Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng

Người theo y phục đều màu vàng

Giày mang dao đeo cũng đều vàng

Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng

Người áo vàng cầm phan lọng vàng

Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ

Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ

Người theo y phục đều màu đỏ

Giày mang dao đeo cũng đều đỏ

Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ

Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ

Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ

Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng

Người theo y phục đều màu trắng

Giày mang dao đeo cũng đều trắng

Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng

Người áo trắng cầm phan lọng trắng

Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ

Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn

Người theo y phục đều bốn màu

Giày mang dao đeo cũng bốn màu

Roi cương lạc lưới bốn màu đủ

Người và phan lọng đều bốn màu

Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ

Sau các xe kia trang nghiêm voi

Số voi ấy đủ tám mươi ngàn

Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng

Lưng voi đều có điện bảy báu

Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí

Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn

Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp

Người phục sức đẹp theo sau xe

Dùng những hoa đẹp rải đường ngự

Dùng năm thứ hương làm thơm đất

Treo những bình hương và lụa màu

Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ

Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường

Hòa tấu âm nhạc theo sau vua".

Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.

Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.

Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.

Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc Thiên và Tha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạc và ca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.

Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.

Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng : "Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vương có vô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh".

Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chưn Phật chắp tay bạch Phật rằng : "Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi mới nói lời này : Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bịnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chưn Thế Tôn. Thời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chưn đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chưn đức Thế Tôn".

Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng :

"Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh

Không người phò trì đi bảy bước

Tự nói ta tối thắng trong đời

Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng

Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng

Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời

Lục thiên đồng tử dâng cúng dường

Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng

Nay lần thứ ba tôi cúi lạy

Cung kính đấng thương xót thế gian

Đáng được Trời Người dâng cúng dường

Đời không ai hơn được đức Phật

Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa

Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng

Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt

Được nguyện đầy đủ được cam lộ".



Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vương và quyến thuộc đầu mặt lạy chưn Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.

Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

"Tịnh Phạn Đại Vương và quyến thuộc

Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường

Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra

Đến vườn khả ái Ni Câu Đà

Phật cùng vô lượng chúng vây quanh

A Tu La Vương và Long Vương

Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương

Càn Thát Bà Vương và quyến thuộc

Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần

Khẩn Na La Vương và Thiên Tử

Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ

Dục giới lục thiên đã như vậy

Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương

Quang Âm Biến Tịnh và quyến thuộc

Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên

Sa Môn đại chúng Bà La Môn

Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử

Cùng các ngoại đạo tất cả phái

Thuật sĩ tu hành các thứ lạ

Đại chúng bốn phương đều đến họp

Như Lai tự hiện đại thần thông

Khiến Tịnh Phạn Vương và Thích chủng

Đều được tín tâm lòng mừng rỡ

Như Lai khắp vì tất cả chúng

Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay

Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương

Hiện hóa các thứ thần thông lực

Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia

Tướng sư ngày trước đoán đồng tử

Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương

Vô lượng Nhơn chúng đồng phục thị

Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu

Cũng lại có đủ bốn thần thông

Như pháp trị chánh gìn quốc độ

Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ

Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy

Ta xưa vô lượng do tha kiếp

Tất cả thời gian thường nói thiệt

Phụ Vương lắng nghe lời ta nói

Phụ Vương từ xưa đối với ta

Từ đầu thiệt không lòng tin kính

Muốn đem Luân Vương bảo ta làm

Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc

Ví như thuở xưa có thần qui

Theo biển thủy triều lên lục địa

Hải thủy triều ấy rút về biển

Thần qui sa vào trong giếng sâu

Trong giếng ba ba hỏi hải qui

Người từ nơi nào nay đến đây

Hải qui trí rộng nói ba ba

Tôi theo thủy triều sa xuống giếng

Lúc thủy triều kia rút về biển

Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp

Vì vậy nay tôi mất thời tiết

Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở

Ba ba lại hỏi hải qui rằng

Nước biển có nhiều hơn nước giếng

Há lại rộng lớn hơn đây chăng

Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ

Hải qui trí rộng bảo ba ba

Anh ngu ở chỗ người đào bới

Tôi ở trong nước biển cả kia

Đã trải quá lâu nhiều năm tháng

Còn chẳng biết được trong lòng biển

Huống là thấu rõ bờ biển ấy

Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết

Sức đại thần thông oai đức tôi

Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ

Hào quí trong đời quyến rũ ta

Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương

Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới

Như pháp chánh trị lìa vũ khí

Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường

Nay ta xưng tụng lời ngày xưa

Nên đến ứng hiện đại chúng nầy

Dùng sức thần thông tu tâm mình

Dùng niệm từ bi triệu tập chúng

Tất cả các cõi đều vân hội

Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín".



PHẨM



A TU LA VƯƠNG THỌ KÝ
THỨ BA

Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thoại tướng. Do thoại tướng ấy nên A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða nghĩ rằng : Nay tôi cúng dường Phật trước nhứt.

A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng đồ chúng sáu mươi na do tha, quyến thuộc, phụ nữ cũng sáu mươi na do tha, đồng đem bửu châu vô giá và các vật quí trong biển dâng cúng đức Phật.

A Tu La Vương ấy hóa làm sáu mươi na do tha xe thất bửu. Các bửu xa ấy lại hóa làm sáu mươi na do tha ngựa điều thuận, trên ngựa lại hóa lưới linh thất bửu để trang sức, chưn ngựa đeo linh xuyến bằng chơn kim, bờm và đuôi ngựa đều bao kết bằng thất bửu, dây cương bằng chơn kim, trên xe báu đều trang nghiêm với thất bửu, càng lọng đều bằng thất bửu. Các lọng thất bửu ấy ở trên hư không bay theo xe, dây linh treo trong lọng cũng bằng thất bửu, có lưới thất bửu giăng trùm lên trên lọng. Gió nhẹ thổi động xe ngựa và lọng thất bửu ấy phát ra tiếng vang vi diệu như trăm thứ nhạc do nhạc công giỏi đồng hòa tấu khiến ngưòi nghe vui vẻ, đoạt thị thính người, đoạt tâm ý người.

Các xe ngựa thất bửu ấy ở trên không cách mặt đất sáu mươi do tuần, sau xe tấu âm nhạc, trên xe đều có A Tu La nữ trang sức rất đẹp. Các A Tu La nữ ấy, hoặc đứng vũ, hoặc ngồi vũ, hoặc xướng ca, hoặc thân động chuyển, hoặc rắc hương bột, hoặc rưới nước thơm, hoặc mưa các thứ hương mưa các thứ hoa mưa mạt vàng, hoặc rải hoa vàng hoa bạc hoa lưu ly hoa pha lê hoa xích chơn châu hoa mã não hoa xa cừ, hoặc cầm thất bửu rải, hoặc rải trang sức, tất cả đều để cúng dường đức Thế Tôn. Hoặc có A Tu La nữ rung động linh xuyến cho reo thành tiếng, hoặc đội vòng hoa thất bửu trang nghiêm với chơn kim, hoặc đội vòng hoa chơn kim trang nghiêm với thất bửu, hoặc cầm lưới chơn kim, hoặc cầm phan thất bửu, hoặc cầm lọng thất bửu, hoặc cầm tràng thất bửu, đều để cúng dường đức Thế Tôn.

Lại có các A Tu la nữ chắp tay nói kệ tán thán rằng :

Quy mạng Trượng Phu Ðiều Ngự Sư

Quy mạng đấng Trượng Phu Tối Thắng

Quy mạng Trượng Phu Lưỡng Túc Tôn

Quy mạng Trượng Phu không ai sánh

Quy mạng đấng soi sáng thế gian

Quy mạng biển trí lớn tối thượng

Quy mạng rừng đầy đủ công đức

Quy mạng núi tối thắng vi diệu

Quy mạng khối đầy đủ công đức

Quy mạng người dứt sạch phiền não

Quy mạng thầy tu các tịnh hạnh

Quy mạng tịnh hạnh không đoạn tuyệt

Quy mạng vô y không khiếp nhược

Quy mạng không lười không tán điệu

Quy mạng quyết định phát tinh tấn

Quy mạng đấng quyết định đầy đủ.

A Tu La Vương lại hóa làm sáu mươi na do tha màn trướng thất bửu vi diệu rất lạ nhiều màu trang nghiêm. Dưới mỗi màn trướng báu bay lững lờ ấy lại hóa sáu mươi na do tha đại địa thất bửu. Trên đại địa ấy đều hóa sáu mươi na do tha tường thành thất bửu. Trong mỗi tường thành hóa sáu mươi na do tha lâu đài cung điện thất bửu. Mỗi điện đường có sáu mươi na do tha cửa lớn cửa sổ thất bửu xen lẫn trang nghiêm. Trong mỗi điện đường có sáu mươi na do tha tòa sư tử thất bửu trải bửu y. Hai đầu sư tử tọa để gối đỏ, trước tọa có chiếc kỷ thất bửu trên để sáu ức bửu y của A Tu La Vương. Trên mỗi tòa sư tử đều có hai A Tu La nữ trang sức thất bửu đều cầm lá cây đa la thất bửu làm quạt hầu hai bên một hóa A Tu La tử ngồi trên ấy. Các điện đường ấy đều có sáu mươi na do tha tràng lọng thất bửu.

Các màn trướng và điện đường thất bửu ấy ở trên không bay nhiễu bên hữu đức Phật ba vòng, rải các thứ hương, mưa các thứ hoa cúng dường đức Phật.

Lúc ấy ngoài bốn cửa thành Ca Tỳ La đều rộng sáu mươi do tuần, do sức oai thần của A Tu La Vương phóng ánh sáng chiếu khắp sáu mươi do tuần, chiếu lên sáu vạn do tuần chu vi đầy khắp những đồ cúng dường. Các màn trướng lững lờ bay nhiễu quanh Phật rồi dừng lại.

Lúc ấy trong thành Ca Tỳ La chứa hoa trời mạn đà la cao bảy trượng, nước thiên hương thành bùn. Do thần lực của Phật làm cho hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên Ðại thừa nghe hơi thơm ấy, người mới phát Bồ đề tâm cũng còn được bất thối chuyển huống là người đã tu lâu.

A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dùng bột hương chiên đàn cõi trời rải lên trên đức Phật mà nói kệ rằng:

"Nay tôi quy y Bà Già Bà

Ðấng ban Trời Người đức vô úy

Quy y đấng tối thắng bất động

Hi vọng vô thượng đại Bồ đề

Nay tôi quy y Bà Già Bà

Lòng mừng chẳng đọa ba ác đạo

Thế nên nay tôi quy y Phật

Mong cầu vô thượng đại Bồ đề

Nay tôi quy y Bà Già Bà

Ðấng trừ sanh tử biển khổ lớn

Hay dứt đồng hoang lìa phiền não

Bực thầy hay dẫn đạo chúng sanh

Nay tôi quy y Bà Già Bà

Quy y Phật rồi chẳng cầu sanh

Biển rất khổ bị già chết bức

Thế Tôn là thầy của Trời Người".

Nói kệ tán thán Phật rồi A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng.

Các ngựa báu anh lạc trang nghiêm, các xe báu, các A Tu La, các A Tu La nữ, các tràng phan lọng báu linh lưới thất bửu bị gió thổi động vang ra tiếng vi diệu vui lòng đẹp dạ như cả trăm thứ nhạc hòa tấu rất hay.

A Tu La Vương lại nhiễu Phật ba vòng, mưa hương bột chiên đàn cõi trời, hương bột ưu bát la, hương bột trầm thủy, hương bột đa ma la, các thứ hương bột a tu la từ trên không rơi xuống. Lại mưa các hoa trời mạn đà la, ma ha mạn đà la, mạn thù sa, ma ha mạn thù sa, ba lô sa ca, ma ha ba lô sa ca, ca ca la bà, ma ha ca sa la bà, ba tra lê, ma ha ba tra lê, chất đa la ba ra trê, ma ha chất đa la ba tra lê. Lại có các thứ hoa biến hóa, hoa vàng, hoa bạc, hoa lưu ly, hoa pha lê, hoa xích chơn châu, hoa xa cừ, hoa mã não từ trên không mưa xuống.

Lại mưa nước thơm cõi trời, nước thơm A Tu La. Do vì nước thơm ấy nên thành Ca Tỳ La trong ngoài sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm, hơi thơm ấy khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Bồ Tát được nghe hơi thơm ấy được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

A Tu La Vương nhiễu Phật ba vòng, do thần lực đức Phật ở trong hư không trỗi âm nhạc trời và âm nhạc A Tu La. Các âm nhạc ấy do thần lực Phật nên vang khắp tam thiên Ðại Thiên thế giới. Người tu Ðại thừa nghe tiếng âm nhạc ấy được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

Vô lượng trăm ngàn A Tu La nữ, hoặc ca, hoặc vũ, hoặc tấu nhạc, hoặc thân chuyển động.

Các A Tu La nữ lại rải các thứ hương bột, cõi trời và các thứ hoa trời, hoa biến hóa, hoa thất bửu để cúng dường đức Phật. Lại rải những y phục báu và những đồ trang sức thất bửu, các thứ hương bột, các thứ chơn châu để cúng dường Phật.

A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða cùng các quyến thuộc đồng thanh nói kệ rằng:

"Tâm tôi thường như vậy

Gặp gỡ Phật Thế Tôn

Vì qui y Như Lai

Vị lai thường cúng dường".

A Tu La Vương Ba La Ðà bố thí cúng dường Phật cũng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rồi nói kệ rằng:

"Tôi lạy đấng được thiệt thập lực

Cũng lạy đấng vô úy tự tại

Quyết định được những pháp bất cộng

Quy mạng Ðạo Sư các thế gian

Tôi lạy đấng dứt trừ kiết sử

Cũng lạy xuất ly đường sanh tử

Ðạo Sư dẫn dắt chúng sanh nghèo

Tôi lạy trí sâu chẳng nghĩ bàn

Cùng chúng hòa hiệp chẳng lay động

Ở trong các loài tâm giải thoát

Như hoa sen kia chẳng dính nước

Thế Tôn vốn tu các pháp không

Rời lìa lựa chọn được vô tướng

Nơi tất cả chỗ không nguyện cầu

Tôi lạy như không không chỗ nương".

A Tu La Vương Thiện Tý trần thiết cúng dường quảng đại vô lượng như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những lúa vàng chơn kim và nói kệ tán thán:

"Ðấng Ðại Mâu Ni không ai sánh

Trên trời dưới trời cũng vô tỉ

Phật biết chúng sanh như dương diệm

Chẳng phải thiệt chỉ là ý tưởng

Nơi đây không người làm người thọ

Cũng không sĩ phu không vô ngã

Rời lìa tạo tác không thể tánh

Tuyên nói tất cả pháp tịch địch

Tin hiểu được nơi pháp Như Lai

Quán tất cả pháp đều bình đẳng

Người ấy sẽ được làm Phật tử

Thuận lời Phật dạy như cha mẹ

Nay tôi khen ngợi phước đã được

Tôi đem phước đức của tôi có

Hồi thí chúng sanh đều làm Phật".

A Tu La Vương Bạt Trì Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dùng hoa chất da la ba tra lê rải cúng dường Phật rồi nói kệ tán thán rằng:

"Ðại Tiên Như Lai thân thần diệu

Vượt hơn tất cả các Trời Người

Ðã như Tu Di so hột cải

Lại giống biển lớn sánh dấu trâu

Nhan dung Như Lai rất đoan chánh

Nhiều tướng trang nghiêm tối đệ nhứt

Vượt hơn tất cả các màu sắc

Như mặt nhựt mọc lửa đóm lu

Thế Tôn khối vô lượng oai đức

Khiến các oai đức chẳng hiện được

Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ

Ðại Thánh Thế Tôn biển trí lớn

Vượt hơn trùm khắp cả ba cõi

Che các ngoại đạo khiến chẳng hiện

Như mặt trời sáng khuất ánh trăng".


A Tu La Vương Diệm Bà Lợi trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng, dùng hoa ma ha ba tra lê rải cúng Phật rồi nói kệ tán thán rằng:

"Bực trí huệ thích xa ma tha

Trừ được ba độc tham sân si

Dẫn dắt chúng sanh xuất thế gian

Như mưa rào tắt lửa lắng bụi

Thế Tôn hừng hực mắt chánh pháp

Cũng như dầu tô tưới lửa hừng

Hay dứt phiền não lưới nghi hết

Cũng như lửa đốt đồng hoang lớn

Nhan dung đoan chánh rất vi diệu

Các tướng trang nghiêm tối đệ nhất

Vượt hơn tất cả các diệu sắc

Như mặt nhựt mọc sáng đóm mờ

Như Lai nắm cầm các thiện căn

Vô lượng ức vạn na do tha

Hay trừ phiền não và nghiệp ác

Như ăn cam lộ trừ thân độc

Thổi trừ tất cả tối vô minh

Như đêm đuốc sáng soi hắc ám

Như Lai thị hiện mắt chánh pháp

Dường như thợ ngọc rõ giá ngọc".

A Tu La Vương Lạc Chiến trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng rải những hoa báu nói kệ tán thán rằng:

"Ác tâm khó điều Phật điều được

Như dũng sĩ mạnh hàng giặc dữ

Khéo được nhu nhuyến tâm tự tại

Tôi lạy đấng vô úy tâm điều

Ủiều được các căn lìa oán thù

Rời úy vô úy được an ổn

Thế Tôn phiền não chẳng còn phát

Trừ dứt độc hại đều không thừa

Sức na la diên khéo tu từ

Ở trong yêu ghét lòng bình đẳng

Như Lai biết ý tưởng chúng sanh

Chẳng bị sáu đường nắm giữ được

Rời lìa tâm tưởng hết tham ái

Phóng sáng trí huệ phá tối tăm

Ở trong các pháp lòng chẳng chấp

Thế Tôn siêu quá không ai sánh".

A Tu La Vương Thiện Nhựt trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng dâng các bửu tạng lên Phật nói kệ tán thán rằng:

"Ðại Hùng biết từ lâu

Thiệt tướng của các pháp

Ðó là tên các pháp

Ðều riêng hòa hiệp giả

Thể của tất cả pháp

Các cách cầu chẳng được

Nói rằng là pháp nầy

Nói đều là giả danh

Lìa danh gọi thể tánh

Các tướng cũng như vậy

Không tướng cũng không danh

Ðã lìa ba thứ pháp

Nói rằng là giải thoát

Thiệt thì không chỉ được

Người nói nói cũng không

Người hiểu cũng là không

Biết các pháp như vậy

Ðấng Mâu Ni vô thượng

Chẳng chấp nơi các pháp

Tu hành danh xưng lớn".

A Tu La Vương Phục Tam Giới trần thiết cúng dường như Tỳ Ma Chất Ða A Tu La Vương, ngồi xe thất bửu nhiễu quanh Phật ba vòng dâng chơn châu anh lạc lên Phật nói kệ tán thán rằng:

"Nay tôi khen Phật lìa oán địch

Dung nhan đoan chánh sức giới trí

Tất cả thế gian không như Phật

Dùng thân vô tỉ phục thù địch

Sắc lực quang minh chiếu ba cõi

Tu các nghiệp lành được tướng tốt

Tám mươi tùy hảo đều nghiêm tịnh

Sức trì tịnh giới không bị động

Người trí suy lường chẳng biết được

Vì Phật trì giới tâm thanh tịnh

Nên được thành đấng Phật Thế Tôn

Trí lực của Phật không còn sánh

Vì không bố úy hơn ba cõi

Như vua sư tử rống giữa rừng

Vượt hơn tất cả các ngoại đạo".

A Tu La Vương Tỳ Lô Giá Na trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm các báu rải trên Phật mà tán thán rằng:

"Ðại chúng đều họp chỗ Mâu Ni

Tịnh tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai

Tất cả hiện tiền thấy Thế Tôn

Ðây là tướng bất cộng của Phật

Phật dùng một âm diễn thuyết pháp

Mọi loài tùy tâm đều được hiểu

Phật thuyết pháp đúng cơ chúng sanh

Ðây là tướng bất cộng của Phật

Phật dùng một âm diễn thuyết pháp

Chúng sanh tùy loài đều được hiểu

Xứng ý mong muốn biết rõ nghĩa

Ðây là tướng bất cộng của Phật

Phật dùng một âm diễn thuyết pháp

Hoặc có tu tấn hoặc điều phục

Hoặc có chứng được quả vô học

Ðây là tướng bất cộng của Phật".

A Tu La Vương Mục Chơn Lân Ðà trần thiết cúng dường như A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða, ngồi xe thất bửu nhiễu Phật ba vòng tay cầm xích chơn châu rải lên Phật nói kệ tán thán rằng:

"Tâm tịnh vui mừng kính tin Phật

Rời lìa ngạo mạn không tà kiến

Thuận Phật A Hàm chẳng phóng dật

Ðây là bực tu hành vô tỷ

Các pháp tự tánh bất khả khả đắc

Như mộng hành dục thảy đều hư

Chỉ theo ý tưởng chẳng thiệt có

Thế Tôn biết pháp cũng như vậy

Như mây mùa thu trăng trong nước

Mê hoặc chúng sanh ngu vô trí

Chẳng mê hoặc được người mắt sáng

Tinh tấn rất ưa Phật chánh pháp

Người diệu rất diệu chẳng sai lầm

Ở trong Phật pháp chẳng phóng dật

Phân biệt các pháp đều như mộng

Ðược thấy như thiệt diệu tam muội".

Bấy giờ các A Tu La Vương Tỳ Ma Chất Ða v.v... có sáu mươi na do tha A Tu La trần thiết cúng dường rồi, thảy đều chắp tay làm lễ đứng yên, mừng vui hớn hở tình ý tràn đầy vui mừng vừa lòng, tâm nguyện Bồ Ðề nối tiếp chẳng tuyệt.

Ðức Thế Tôn biết các A Tu La tín tâm cúng dường rồi, theo pháp chư Phật mà thị hiện tướng mỉm cười. Từ diện môn của Phật phóng ra vô lượng tia sáng màu: xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía pha lê vàng bạc và màu lẫn lộn. Từ miệng phóng ra rồi, các tia sáng màu ấy nhiễu Phật ba vòng trở về nhập vào đảnh Phật.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo đứng dậy trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất chắp tay làm lễ rồi nói kệ hỏi Phật rằng:

"Hùng mãnh Mâu Ni hiện thoại tướng

Thương thế gian chẳng phải không nhơn

Thế Tôn tối thắng xin nói cho

Nhơn duyên gì Ðại Tiên hiện tướng

Thương xót chúng sanh hiện thoại ứng

Thấy các Tu la cúng dường lớn

Muốn thọ ký cho A Tu La

Khiến đại chúng tôi được vui vẻ

Nay có thắng tâm tin chẳng nghi

Trong chúng đây có người phát tâm

Thế Tôn biết tín căn họ rồi

Thiền Nhơn Ðạo Sư hiện tướng ấy

Ngày nay ai phát tâm thanh tịnh

Trong đại chúng ai sanh thắng tín

Thế Tôn biết tín căn họ rồi

Hiện thoại tướng mỉm cười tối diệu

Nay đại chúng đây muốn biết rõ

Ðều thấy Như Lai hiện mỉm cười

Hôm nay ai lại hàng ma oán

Phật hiện mỉm cười vì người ấy

Lành thay Ðại Tiên hàng ma oán

Mong dứt lòng nghi của đại chúng

Nguyện Phật nói mau chớ chần chờ

Cho đại chúng đây được biết rõ".

Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng:

"Lành thay nghĩa hỏi của Tỳ Kheo

Phật hiện thoại tướng lợi thế gian

Phật nói quả báo không có thừa

Nay ông nhứt tâm khéo lắng nghe

Các A Tu La cúng dường Phật

Ðể cầu Vô thượng thắng Bồ Ðề

Tâm ý Tu La không chỗ nương

Như tay tại hư không chẳng chướng

Tu La cúng dường Thế Tôn rồi

Tâm ý chúng ấy đều thanh tịnh

Ðại trí đều bỏ đạo Tu La

Với Trời Người từ lâu đã thích

Chúng ấy ở đời vị lai sau

Gặp gỡ hằng sa đại Ðạo Sư

Ở kiếp Thiện Danh được thành Phật

Chư Phật ấy đồng hiệu Thiện Danh

Số đúng sáu mươi na do tha

Danh chấn mười phương soi thế gian

Diễn nói pháp vô y vô trước

Hay rộng độ thoát chúng Nhơn Thiên

Các Phật độ ấy rất nghiêm tịnh

Phật biết thế gian rời ngũ trược

Tịnh Phật quốc độ ba ngàn cõi

Số đúng sáu mươi na do tha

Nước kia chẳng có ba ác đạo

Do lòng mừng vui đất ruộng sạch

Phật kia hùng mãnh Vô thượng Ðại thừa

Chư Như Lai kia được thọ mạng

Ở đời sáu mươi do tha kiếp

Diễn nói pháp không nơi y chỉ

Mỗi mỗi Như Lai đều cũng vậy

Sau khi Như Lai kia diệt độ

Thế gian người trí đều cũng diệt

Ðủ số sáu mươi do tha kiếp

Chánh pháp Phật ấy còn tại thế

Chư Như Lai ấy đều riêng độ

Số chúng sanh đông như hằng sa

Chư Như Lai ấy số vô lượng

Cõi thọ chánh pháp trụ cũng vậy

Chư Như Lai kia hay thành thục

Sáu mươi do tha số chúng sanh

Ðều khiến an trụ trong Ðại thừa

Thảy đều nối tiếp giống Tam bảo

Hôm nay thọ ký cho Tu La

Ðấng Ðại Tiên độ đời tuyên nói

Trời Người nghe thọ ký nầy rồi

Thâm tâm hớn hở được tịnh tín".


PHẨM
BỔN SỰ
THỨ TƯ



Bấy giờ Huệ Mạng Ma Ha Ca Diếp thấy các A Tu La Vương cúng , dường đức Phật rồi , sanh tâm hi hữu tự nghĩ rằng : Lúc đức Thế Tôn tu hạnh Bồ Tát tạo căn lành gì mà nay được quả báo ấy ? Ngài liền nhập như thiệt tam muội, do sức tam muội trang nghiêm nơi tâm nên nhớ biết thuở quá khứ vô số a tăng kỳ kiếp tất cả công đức mà Như Lai đã tu tập trong các loài ấy, trong các đời ấy tu tập thiện căn đều để làm đầy đủ vô thượng Bồ đề. Do các thiện căn ấy mà được bực bất thối chuyển, các thiện căn ấy đều nhớ biết.

Lúc Ngài Ma Ha Ca Diếp nhớ thiện căn lớn của đức Như Lai, Ngài nghĩ rằng như Phật đã tu tập căn lành rộng lớn, thiện căn mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai , ví như hằng sa thế giới quốc độ mười phương tất cả chúng sanh trong ấy đều được thân người, rồi trong hằng sa kiếp cúng dường chư Phật như A Tu La Vương. Mỗi mỗi chúng sanh trong hằng sa kiếp cúng dường Phật rồi chẳng báo đáp được thiện căn một lần phát tâm của đức Như Lai.Huệ Mạng Ma ha Ca Diếp từ tam muội dậy tán thán rằng :

“ Mỗi mỗi Như Lai đấng Mâu Ni

Phát tâm rộng lớn hướng Bồ đề

Sự cúng dường Phật các Tu La

Cũng chẳng bằng một phần Ca La

Thế Tôn Ứng Cúng Thầy Trời Người

Như khối chiên đàn bằng núi chúa

Chỗ cúng dường thù thắng Trời Người

Do nơi công đức đến bỉ ngạn

Ðấng Thầy Trời Người đáng thọ cúng

Hơn số hằng hà sa đã thọ

Ví như biển cả đầy nước trong

Nước thơm hòa hiệp mà cúng dường

Ðầy đủ công đức nên thọ cúng

Nhiều hơn cả số hằng hà sa

Chứa đầy khối hoa mà cúng dường

Dường như núi Chướng Ca Bà La

Tự nhiên Ðại Sĩ nên thọ cúng

Ngọn đèn sáng như núi Tu Di

Biển cả dùng làm bình đựng dầu

Ðem đèn cúng dường chư Thế Tôn

Ðấn oai thế nên thọ cúng dường

Nhiều hơn số hằng hà sa

Tạo lập tháp miếu mà cúng dường

Do nơi công đức đến bỉ ngạn

Nhơn Thiê Ðạo Sư nên thọ cúng

Ðem những lọng báo lớn đẹp lạ

Mỗi lọng che khắp cõi Ðại Thiên

Trải suốt số kiếp na do tha

Ðấng Thế Tôn thương xót thế gian

Công đức vô biên nên thọ cúng

Ðem những tràng báo để cúng dường

Ðầy khắp thế giới trong mười phương

Nơi số kiếp ức bất tư nghị

Ðem phan rộng lớn mà cúng dường

Ðầy hằng hà sa các thế giới

Trải qua vô lượng ức kiếp số

Cúng dường Như Lai Thiên Nhơn Sư

Phát khởi phân biệt làm thí dụ

Ðại chúng con của Ðại Luận Sư

Lắng nghe lắng nghe các Trời Người

Tôi cùng mọi người tại chúng nầy

Số đông như số hằng hà sa

Bao nhiêu đại chúng ở mười phương

Tất cả đều sẽ được làm Phật

Ðầy đủ thập lực đại Ðạo Sư

Số chư Phật ấy như hằng sa

Mỗi mỗi đều có hằng sa đầu

Nơi mỗi mỗi đầu như hằng sa

Ðều có đủ cả hằng sa miệng

Nơi mỗi mỗi vô lượng miệng ấy

Ðều có vô lượng vô số lưỡi

Dùng lưỡi ca ngợi nơi Như Lai

Chư Như Lai ấy nói chẳng hết

Công đức bờ kia chẳng đến được

Nhứt thiết chủng trí chẳng lường được

Do công đức đến bỉ ngạn vậy ”.

Ðức Thế Tôn bảo các Tỳ kheo: “ Lành thay, lành thay ! Nầy chư Tỳ Kheo ! Chư Thanh Văn của ta lòng đoan trực có trí có pháp như Phạm Thiên mới được vào trong biển công đức của Phật. Tại sao ? Vì Như Lai đầy đủ vô lượng công đức, đầy đủ công đức chẳng nghĩ bàn. Khối công đức của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn.

Nầy chư Tỳ Kheo ! Khối công đức của Như Lai nếu là hình sắc, thì công đức mỗi mỗi lần phát tâm ấy, hằng sa thế giới chẳng dung chứa được? Tại sao ?

Nầy chư Tỳ Kheo ! Công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai là chỗ phan duyên của Nhứt thiết trí, như hằng sa chư Phật, như hằng sa kiếp, chẳng thể suy lòng chẳng thể nói hết. Tại sao ? Vì lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa không một phát tâm nào là chẳng vì lợi ích tất cả chúng sanh, nhiếp thuộc chúng sanh không một phát tâm nào là chẳng vì tất cả chúng sanh, chúng sanh giới không biên tế, chúng sanh trong đó cũng không biên tế, công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai cũng không biên tế. Tại sao ? Như chúng sanh giới không biên tế, như chúng sanh giới chẳng lường được, khối công đức mỗi mỗi lần phát tâm của Như Lai chẳng thể cùng tận, đều vì thương xót lợi ích an lạc tất cả chúng sanh mà phát tâm vậy. Giả sử tất cả chúng sanh đều cúng dường chẳng thể báo đáp được công đức một lần phát tâm của Như Lai. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy cúng dường Như Lai đều vì hi vọng quả báo thế gian tạp thực vậy.Bồ Tát phát tâm rời lìa nơi tâm tạp thực cầu báo thế gian mà vì lợi ích an lạc chúng sanh, muốn khiến chúng sanh trái sanh tử mà xu hướng Niết bàn.

Lúc Như Lai tu hạnh Bồ Tát thuở xưa vì lợi ích an lạc chúng sanh, rời lìa tạp thực chẳng cầu báo thế gian ”.

Ðức Phật bảo chư Tỳ Kheo ; “ Thuở quá khứ, vô lượng vô biên lưu chuyển sanh tử vô số bất khả tư nghì trong vô thỉ thế giới bất khả thuyết kiếp có Phật hiệu Nhơn Ðà Tràng Vương xuất thế đủ mười đức hiệu.

Nầy chư Tỳ Kheo ! Lúc đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai thành Phật, hằng sa thế giới đồng một quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không có các ác đạo và tám nạn, chúng sanh trong đó đều an trụ chánh định tụ. Hoàn toàn không có chúng sanh tà định, tăng thượng mạn. Tất cả đều không có thân nghiệp bất tịnh, khẩu nghiệp bất tịnh, ý nghiệp bất tịnh, cũng không có phiền não ác đạo, nghiệp ác đạo.

Tại sao ? Vì đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa chúng sanh ấy cho họ phát tâm dứt tất cả ác, đem pháp lành dạy cho họ tu học.

Trong quốc độ của đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai có năm thứ vui : một là được dục lạc, hai là được vui xuất gia, ba là được vui thiền định, bốn là được vui tam ma đề, năm là được vui Vô thượng Bồ đề.

Các chúng sanh ở quốc độ ấy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm trước , như ong mật chi” lấy mật hoa mà chẳng lấy sắc hoa, như chim bay đi trên không mà chẳng dừng dính hư không, chúng ấy cũng vậy dầu thọ lạc mà chẳng nhiễm lạc. Các chúng sanh ấy không có lo khổ chỉ có vui sướng, cũng không bất khổ bất lạc thọ vì không ngu si vậy, chỉ có sự vui thích vừa lòng. Tại sao ? Vì các chúng sanh vốn đã tu căn lành. Do vì đức Phật ấy lúc tu hạnh Bồ Tát hiện các tướng hảo khiến các chúng sanh ấy chẳng làm ác mà đặt để cho họ tu tập pháp lành, họ lần lượt rời lìa ác đạo ở chỗ lành vui, tất cả thứ nghiệp bất thiện họ đều không hẳn. Lúc họ tạo nghiệp lành được quả báo an vui mà họ chẳng tham luyến và không bao giờ sanh khổ thọ, vì chẳng tạo nghiệp ác nên chẳng thọ quả khổ vậy.Vì không ngu si nên cũng không bất khổ bất lạc thọ.

Trong quốc độ ấy tất cả thời gian thường không có gió dữ mưa bạo, cũng không có độc nhiệt, chúng sanh cõi ấy không có khổ vì thời tiết thay đổi.

Lúc đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai tu hạnh Bồ Tát, tất cả thân nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả khẩu nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả ý nghiệp trí thượng thủ tri thuận chuyển diễn thuyết khai thị chánh hiển, tất cả chúng sanh trong quốc độ ấy theo Bồ Tát nghe pháp rồi tất cả ba nghiệp thân khẩu ý nghiệp trí thượng thủ trí thuận chuyển hồi hướng. Do nơi nghiệp lành nên báo ngu si chẳng sanh. Do vì không ngu si nên chúng sanh ấy không có khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Các chúng sanh ấy lúc sanh quốc độ kia, đức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai giáo hóa rồi, họ kính trọng nơi pháp, nếu lúc du hành họ suy lường nơi pháp yêu thích nơi pháp nhiễm trước nơi pháp. Lúc du hành do họ yêu thích nhiễm trước nơi pháp không có khổ thọ, đi đứng ngồi nằm ngủ thức đều không có một chút khổ về oai nghi. Các chúng sanh trong quốc độ ấy không có ác để thuận theo. Do vì không ác nên không có khổ sanh và không chấp nơi lành. Do cớ ấy nên các chúng sanh kia khéo thuận nơi không mà không có biến dịch khổ. Ở trong các pháp chẳng sanh tham trước nên chẳng có hoại khổ. Quốc độ ấy cũng không có hoán tắng hội khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy ở trong tất cả chúng sanh được tâm an trụ bình đẳng hiện tiền nên không có oán tắng. Cũng không có ái biệt ly khổ. Tại sao ? Vì các chúng sanh ấy không ái trước tất cả pháp. Khổ ái biệt ly do nơi ái mà sanh. Chúng sanh ấy không ái nhiễm nên không có ái biệt ly khổ. Cũng không có khổ khổ. Tại sao ? Vì đối với lạc thọ chẳng luyến trước vậy.Chỉ có hành khổ thôi, đó là vô thường khổ. Tại sao ? Ðức Phật ấy chỉ nói đệ nhứt nghĩa đế. Ðức Phật thọ hằng sa kiếp. Trong Phật độ ấy không có một chúng sanh nào tranh luận với Phật mà sanh trong cõi ấy. Tại sao ? Vì lúc làm Bồ Tát đã thành thục xong chúng sanh vậy”.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “ Nầy chư Tỳ Kheo ! Ý các ông thế nào ? Có thể dùng hạ thiện căn, ít thiện căn những thiện căn

Chẳng tập giỏi, những thiện căn chẳng tương ưng, thiện căn chẳng phải đại tinh tấn, thiện căn chẳng phải thiện thú, chẳng phải thiện pháp, chẳng phải thiện hồi hướng mà có hể làm lợi ích các chúng sanh ấy hay ban vui trừ khổ ư ? Có thể nghiêm tịnh quốc độ quảng đại ấy ư ? Có thể thành thục nhiều chúng sanh như vậy ư ? ” .

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ” .

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tâm hạ liệt, tâm khiếp nhược, tâm tương ưng bất thiện, tâm chẳng phải tinh tấn, tâm chẳng phải khéo tập thiện căn, tâm chẳng phải thiện thú, tâm chẳng phải thiện pháp, tâm chẳng phải thiện hồi hướng mà làm lợi ích an lạc được các chúng sanh ấy, ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng snh như vậy chăng ? ”.

Chư Tỳ Kheo bach rằng : “ Chẳng thể được ”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng :” Ý các ông thế nào ? có thể dùng tin hạ liệt, tin ít, tin kém, tin khiếp nhược, tin tương ưng bất thiện, tin chẳng phải tinh tấn, tin chẳng phải khéo tập thiện căn, tin chẳng phải thiện thú, tin chẳng phải thiện pháp, tin chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đai như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng?”.

Chư Tỳ Kheo bạch Phật rằng :” Chẳng thể được ”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng giới hạ liệt, giới ít, giới kém, giới chẳng phải tinh tấn, giới chẳng phải khéo tập thiện căn, giới chẳng phải thiện thú, giới chẳng phải thiện pháp, giới chẳng phải thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ dược và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?” .

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng tinh tấn hạ liệt , tinh tấn ít, tinh tấn kém, tinh tấn khiếp nhược, tinh tấn chẳng tương ưng, tinh tấn chẳng phải tinh tấn, tinh tấn chẳng phải khéo tập thiện căn, tinh tấn chẳng phải thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được

Các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể dược ”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng niệm hạ liệt, niệm ít, niệm kém , niệm khiếp nhược, niệm chẳng tương ưng thiện căn, niệm chẳng tinh tấn, niệm chẳng khéo tập thiện căn , niệm chẳng phải thiện thú, thiện phát thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ được và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại như vậy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng định hạ liệt, định ít, định kém, định khiếp nhuợc, định chẳng tương ưng thiện căn, định chẳng tinh tấn, định chẳng khéo tập thiện căn, định chẳng thiện thú, thiện phát, thiện hồi hướng, mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được quốc độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ? ”.

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

Ðức Phật lại bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ý các ông thế nào ? Có thể dùng huệ hạ liệt,huệ ít, huệ kém, huệ khiếp nhược, huệ chẳng tương ưng thiện căn, huệ chẳng tinh tấn, huệ chẳng khéo tập thiện căn, huệ chẳng thiện thú, thiện pháp, thiện hồi hướng mà lợi ích được các chúng sanh ấy, có thể ban vui cứu khổ và nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại ấy, thành thục được nhiều chúng sanh như vậy chăng ?”.

Chư Tỳ Kheo bạch rằng : “ Chẳng thể được ”.

Ðức Phật bảo các Tỳ Kheo rằng : “Ðúng như vậy. Nầy các Tỳ Kheo ! Thiệt chẳng phải dùng ít thiện căn , ít giới, ít tín, ít tinh tấn, ít niệm, ít định, ít huệ mà có thể lợi ít được các chúng sanh, và có thể ban vui cứu khổ, nghiêm tịnh được Phật độ quảng đại, thành thục, được nhiều chúng sanh như vậy.

Nầy chư Tỳ kheo ! Ý các ông thế nào ? Các ông có biết đức Phật Nhơn Ðà Tràng Vương thuở quá khứ xa xưa ấy là ai chăng ? ”.

Ðức Phật hỏi rồi mà chư Tỳ Kheo đều nín lặng chẳng đáp.

Ðương lúc ấy, phương Ðông quá hằng sa thế giới tên Nguyệt Quang Trang Nghiêm, hiện tại có Phật hiệu Cao Oai Ðức Vương Như Lai. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ở tại chúng hội ấy biết tâm niệm của Phật Thích ca Mâu Ni liền bạch đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai rằng : “ Bạch đức Thế Tôn! Nay Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết Pháp tại thế giới Ta Bà. Tôi qua đó đảnh lễ cúng dường cung kính nghe pháp ”. Ðức Cao Oai Ðức Vương Như Lai nói với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng : “Ông đi tùy ý, nay đã phải lúc ”. Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đầu diện lễ đức Cao Oai Ðức Vương Như Lai đi nhiễu Phật ba vòng rồi như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ cõi Nguyệt Quang Trang Nghiêm hiện ra trước đức Thích Ca mâu Ni Như Lai lạy chân Phật rồi ngồi một bên mà bạch rằng : “ Bạch Thế Tôn ! Ðức Nhơn Ðà Tràng Vương Như Lai thuở xưa ấy tức là Thế Tôn vậy. Tại sao ? Do đức Thế Tôn đầy đủ bất tư nghì các thiện phương tiện có thể thành thục chúng sanh và nghiêm tịnh Phật độ luôn chẳng mỏi mệt cũng chẳng chán nhàm. Ðức Thế Tôn an trí chúng sanh nơi Bồ Tát thừa cũng chẳng mỏi nhàm. Nếu có người chơn thiệt ngữ nói lời chánh đáng rằng : Thù thắng trong thù thắng, vi diệu trong vi diệu, thượng thủ trong thượng thủ, tối thắng trong tối thắng, nói đức Phật là như vậy, thì nên biết rằng Thích Ca Mâu Ni chơn thiệt không khác ”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói kệ rằng :

“ Hùng mãnh xảo phương tiện

Thương xót các thế gian

Hiện đại oai thần lực

Ðể thành thục chúng sanh

Ðã ở thuở quá khứ

Từng làm tám ức Phật

Như tự có thần lực

Vô tâm chứng chánh giác

Sáu mươi một Tam Thiên

Thanh tịnh quốc độ Phật

Trí cạn chẳng biết Phật

Mâu Ni xảo phương tiện

Chẳng bỏ sơ phát tâm

Các nơi chỗ kia hiện

Lại ở đời vị lai

Thị hiện vô lượng Phật ”.




PHẨM
CA LÂU LA VƯƠNG THỌ KÝ
THỨ NĂM

Bấy giờ lại có tám ức sáu vạn Kim sí Ðiểu Vương thấy A Tu La cúng dường Phật và được thọ ký rồi, đối với Như Lai lòng tin vô lượng vui mừng hớn hở. Vì để cúng dường nên chư Kim Sí điểu Vương hóa hiện tám ức sáu ngàn vạn đền đài thuần nghiêm sức với thất bửu cõi trời rất lạ vi diệu. Mỗi mỗi đền đài có bảy lớp câu lan bằng tứ bửu la vàng bạc lưu ly và pha lê vi diệu đệ nhứt xen lẫn hiệp thành.

Vòng quanh bốn mặt đền đài ấy treo thòng những linh thất bửu là vàng bạc lưu ly pha lê xa cừ mã não và chơn châu, báu ấy tinh kỳ vi diệu đệ nhứt. Lại có màn lưới thất bửu, tràn thất bửu, phan thất bửu và tám ức sáu ngàn vạn trướng thất bửu.

Chư Kim Sí Ðiểu Vương cầm tám ức sáu ngàn vạn đền đài thất bửu ấy, lọng phan tràng trướng thất bửu ấy dưng lên đức Phật Như Lai . Ðã cúng dường xong, chư Kim Sí Ðiểu Vương và những vật cúng dường bay trên hư không nhiễu quanh đức Phật ba vòng như tượng vương Yên La Bà Na ở cõi trời Ðao Lợi đầu đội chư Thiên bay trên không đến cây ba lợi chất đa la. Chư Ðiểu Vương ấy mang đền đài lọng tràng phan trướng thất bửu bay trên không nhiễu quanh Phật ba vòng cũng như vậy.

Chư Ðiểu Vương bay nhiễu Phật rồi dừng ở một phía cung kính đồng thanh nói kệ tán thán rằng :

“ Quy mạng đấng xuất ly sanh tử

Quy mạng đấng cứu độ sanh tử

Quy mạng đấng kiên cố vô thương

Quy mạng đấng vô thượng vô đẳng

Nghuyện tôi sẽ được thân kiên cố

Ba mươi hai tướng tự nghiêm sức

Lại có tám mươi tùy hình hảo

Nguyện cầu chúng tôi như Ðạo Sư

Nguyện tôi viên quang đủ oai đức

Hình nhan công đức đều thành tựu

Nguyện được Phật oai nghi đệ nhứt

Khiến tâm người tịnh chứng tịch diệt

Nguyện đủ giới đức tam ma đề

Cũng được Phật trí huệ vô thượng

Nguyện đều làm Phật độ chúng sanh

Như nay Phật làm thế Ðạo Sư

Bạch Phật tôi nguyện đủ thập lực

Cũng được mười tám pháp bất cộng

Thành Phật trí huệ hơn thế gian

Như nay là Phật thượng trong thượng

Cũng biết chúng sanh không thể tánh

Như ảo như mộng không sở y

Tuyên nói như hướng như hư không

Như Phật hôm nay vì chúng nói ”.

Ðức Phật biết chư Ðiểu Vương kính tin rồi, liền hiện tướng mỉm cười.

Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

Ðấng vô thượng thắng đại Ðạo Sư

Chẳng vô sự mà hiện tướng cười

Ðấng thương thế gian xin nói cho

Hiện tướng mỉm cười do cớ gì

Chư Ðiểu Vương kia đã cúng Phật

Ðiện lọng tràng phan hiện hư không

Khiến Trời Người thấy sanh ngưỡng mộ

Nguyện Lưỡng Túc Tôn nói nghĩa ấy

Tất cả đại chúng chấp tay đứng

Thân tâm thanh tịnh đều mừng rỡ

Nguyện nghe Ðiểu Vương quả vị lai

Xin Lưỡng Túc Tôn tuyên nghĩa ấy

Néu đức Thế Tôn tuyên nói rồi

Tất cả đại chúng đều không nghi

Ðại chúng rời nghi được vô úy

Trí Như Lai hay làm mừng rỡ

Ðại chúng vui mừng được vô úy

Rời những lỗi ác tâm thanh tịnh

Chúng ấy thích nghe Như Lai nói

Dường như đệ tử nhận lời thầy

Nguyện dứt lòng nghi của đại chúng

Nguyện Phật nhiếp thọ cho mừng rỡ

Ðại chúng mừng vui đều đến họp

Nguyện nói Ðiểu Vương quả đương lai ”.

Ðức Phật nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :

Thập lực chơn thiệt siêu tất cả

Viên âm phạm thanh đều đầy đủ

Hàng phục các căn vì Mã Thắng

Nói quả vị lai của Kim Sí

Lành thay Mã Thắng hỏi nghĩa ấy

Phật hiện mỉm cười thương thế gian

Lắng nghe báo ấy để vui dạ

Lòng sẽ mừng rỡ trừ nghi hoặc

Ðiểu Vương cúng dường lớn nơi Phật

Ðể cầu quả Bồ đề Vô thượng

Bốn vô sở úy mười trí lực

Vì được pháp ấy thành Ðạo Sư

Lại cầu mười tám pháp bất cộng

Kim Sí Vương ấy cúng dường Phật

Cũng cầu thân kiên cố chẳng hoại

Ba mươi hai tướng tám mươi tốt

Cầu Phật tịnh giới tam ma đề

Cảnh giới đại trí huệ của Phật

Thành tựu tịnh độ độ thế gian

Vì cầu đây Ðiểu Vương cúng Phật

Ðiểu Vương lòng tin cúng Phật rồi

Kẻ trí hay rời súc sanh đạo

Quyết sẽ được sanh tại cõi trời

Thân chim nầy là thân tối hậu

Hằng sa kiếp sau chúng họ sẽ

Thường sanh nhơn gian và thiên thượng

Cúng dường vô lượng chư Phật rồi

Sẽ được làm Phật phục các căn

Quốc độ Phật ấy không ác thú

Ðầy đủ thân tướng lìa tám nạn

Phật ấy đồng hiệu Phổ Ðoan Chánh

Kiếp ấy tên là Tu Di Tràng

Trong tám ức bốn ngàn vạn năm

Vì thương thế gian Phật trụ thế

Thuở ấy tất cả chư Như Lai

Tuổi thọ Phật sự thảy đều đồng

Phật ấy lìa nhiệt dứt phiền não

Mỗi mỗi đức Phật tám mươi hội

Trong mỗi mỗi hội tám ức người

Rời lìa kiêu mạn được tự tại

Vì họ sẵn có thân kim sắc

Sức mạnh nên lòng thường kiêu mạn

Sau nầy thành Phật thương chúng sanh

Dứt trừ kiêu mạn chuyển pháp luân

Quá khứ chúng họ đã từng làm

Chúng tiên nhơn tu hành khổ hạnh

Số đủ tám ức sáu ngàn vạn

Phàm chỗ tu hành vì thần thông

Lúc chúng tiên nhơn được thần thông

Khen mình khổ hạnh là hi hữu

Chẳng phạm cấm giới đủ công đức

Ở trong rừng núi sanh kiêu mạn

Do kiêu mạn nên sanh Kim Sí

Do tâm thông nên có thần lực

Do giới thanh tịnh nên thấy Phật

Do mạn nên quên tâm Bồ đề

Nay Phật thọ ký Bồ đề rồi

Và nói gốc sanh ra Kim Sí

Ðại chúng nghe rồi đều vui mừng

Mừng rồi đều thành Bồ đề khí ”.



--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy