PHẨM
LỤC GIỚI SAI BIỆT
THỨ HAI MƯƠI LĂM
Bấy giờ Tịnh Phạn Vương và
quyến thuộc thấy A Tu La nhẫn đến trời Quảng Quả cúng dường Phật được thọ
ký, cũng nghe trời Tịnh Cư nói kệ tán thán Phật, lại thấy ngoại đạo cũng
được thọ ký, nhà vua suy nghĩ rằng : Việc ấy hi hữu chẳng nghĩ bàn được.
Ðức Thế Tôn rất khéo nói như vậy, tất cả thế gian rồi đều vui mừng.
Do ái luyến con trai mình nên Tịnh Phạn Vương đối với đức Phật tình ý rất
ân cần. Ðức Thế Tôn nói với Tịnh Phạn Vương rằng : "Pháp của Phật nói,
trước giữa sau đều thiện cả, nghĩa ấy sâu xa, vị ấy thuần thiện thanh tịnh
không xen tạp thanh bạch không ô nhiễm, nói rõ pháp phạm hạnh. Những phạm
hạnh gì ? Ðó là pháp môn phân biệt lục giới.
Nay vua nên lắng nghe
khéo suy nghĩ sẽ vì vua mà nói ”.
Vua nói : " Lành
thay, nay tôi nghe kỹ xin Phật nói cho”.
Ðức Phật nói : " Nầy
Ðại Vương ! Gì là pháp môn phân biệt lục giới ?
Nầy Ðại Vương lục
giới được nói đó là trượng phu, lục xúc nhập cũng là trượng phu, thập bát
ý thức cảnh giới cũng là trượng phu.
Nầy Ðại Vương ! Cớ gì
Phật nói lục giới tức là trượng phu ? Những gì là lục giới ? Ðó là địa
giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, không giới và thức giới.
Nói rằng lục giới là trượng phu đó là đây vậy.
Cớ gì Phật nói lục
xúc nhập gọi là trượng phu? Nhũng gì là lục xúc nhập ? Ðó là vì nhãn xúc
nhập thấy các sắc, nhĩ tỷ thiệt thân cũng như vậy, nhẫn đến vì ý xúc nhập
biết các pháp.
Nói rằng lục xúc nhập là trượng phu đó là đây vậy
Có gì Phật nói mười
tám ý thức cảnh giới là trượng phu ? Gì là mười tám ý thức cảnh giới ? Ðó
là nhãn thấy được sắc khả ý do ức
Tưởng phân biệt mà
sanh tư giác, thấy sắc bất khả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác,
thấy sắc xả ý cũng ức tưởng phân biệt mà sanh tư giác. Nhĩ tỷ thiệt thân
cũng như vậy. Nhẫn đến ý biết pháp khả ý, biết pháp xả xứ ý đều ức tưởng
phân biệt.
Nói rằng thập bát ý
thức cảnh giới là trượng phu đó là đây vậy.
Nầy Ðại Vương địa
giới có hai thứ : đó là nội và ngoại.
Nội địa giới là trong
tự thân được có những thứ cứng rắn có được có lấy như là tóc long móng
răng da thịt gân xương tủy não ngũ tạng lục phủ đại tiện ngoại địa giới là
ngoài thân có những thứ cứng rắn chẳng được chẳng lấy.
Nầy Ðại Vương ! địa giới trong thân, lúc nó sanh không từ đâu đến, lúc nó
diệt cũng không đi đâu.
Nầy Ðại Vương : Có lúc nữ nhơn tự
phân biệt tôi là nư’ nhơn, thấy nam tử kia lại sanh phân biệt kia là nam
tử, bèn sanh ý tưởng dục ưa muốn hòa hiệp mà sanh ái nhiễm nơi nam tử ấy.
Có lúc nam tử ấy tự
phân biệt tôi là nam tử, thấy nữ nhơn kia bèn sanh phân biệt kia là nữ
nhơn rồi sanh ái nhiễm.
Nam tử và nữ nhơn ấy
đều sanh ái nhiễm mà cùng hòa hiệp. Do hòa hiệp mà có ca la lã.
Nầy Ðại Vương ! Nam tử phân biệt ấy và sự được phân biệt, cả hai đều bất
khả đắc, nam tử và tánh nam tử cũng bất khả đắc, do đó chẳng tương tục mà
sanh phân biệt. Phân biệt ấy tự tánh cũng bất khả đắc. Như phân biệt tự
tánh bất khả đắc, hòa hiệp và hòa hiệp tư( tánh cũng bất khả đắc, ca la lã
và ca la lã tư( tánh cũng bất khả đắc.
Nếu tự tánh bất khả
đắc thì nó làm sao sanh được yết bồ đàm?
Nầy Ðại Vương ! Nhơn
phân biệt mà sanh ra có thứ cứng rắn ấy. Thứ cứng rắn lúc sanh không có từ
đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có
lúc thân nầy rốt cuộc làm tử thi. Tử thi cứng rắn ấy lúc biến hoại nó
chẳng về phương Ðông cũng chẳng về phương Nam phương Bắc phương Tây bốn
cạnh trên dưới.
Như trên ấy, đó là
nội thân địa giới.
Nầy Ðại Vương ! Có
lúc thế gian đây đều trống rỗng, lại sanh Phạm Thiên cung điện thất bửu.
Tướng cứng rán của cung điện ấy lúc sanh không từ đâu đến.
Tướng cứng rắn của
cung điện thất bửu trời Tha Hóa Tự Tại, trời Hóa Lạc, trời Ðâu Suất, trời
Dạ Ma, trời Ðao Lợi, trời Tứ Thiên Vương, lúc sanh không từ đâu đến.
Núi Thiết Vi, núi Ðại
Thiết Vi cứng rắn,lú sanh không từ đâu đến. Nhẫn đến núi Tu Di, khắp cõi
tam thiên Ðại Thiên , tất cả thứ cứng rắn trong ấy, lúc sanh không từ đâu
đến.
Ðại địa nầy dày một trăm sáu mươi vạn do tuần, lúc sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, đại địa hoặc bị
lửa cháy nát, hoặc bị nước trôi rã, hoặc bị gió thổi tan. Lúc lửa cháy đại
địa nầy cho đến khói tro không còn thấy, như dầu tô bị lửa cháy tan biến
không sót thừa, như lấy muối bỏ vào nước tiêu tan hết cả. Lúc bị gió thổi
hoại cũng không còn sót thừa, như gió mạnh tỳ lam thổi tan mất bầy phi
điểu không còn sót thừa. Ðịa giới
trong ấy lúc tan diệt cũng không đi đâu.
Nầy Ðại Vương ! Ðúng
vậy đúng vậy, nội thân địa giới và ngoại thân địa giới, lúc nó sanh không
từ đâu đến, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Lúc nó sanh cũng không lúc nó
trụ cũng không. Sanh và trụ hai thời gian thể tánh đều không.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Nội thân thủy giới là
những thứ nước, tánh nước, thể nước, hoặc nhuần, tánh nhuần, thể nhuần ở
trong thân, như nước mắt, nước mũi, mồ hôi, nước miếng, mủ, máu, đàm, mỡ,
tủy, sữa, tiểu tiện.
Ngoại thân thủy giới
là những nước tánh nước thể nước và nhuần tánh nhuần thể nhuần mà thân
chẳng được chẳng nhiếp.
Nầy Ðại Vương ! Thủy giới trong
thân ấy, lúc nó sanh không từ đâu lại, lúc nó diệt cũng chẳng đi đâu. Như
líc thấy người yêu thương thì trong mắt chảy nước mà lúc bị khổ trong mắt
cũng chảy nước, lúc nghe pháp kính tin nước mắt chảy ra mà bị phong hàn
cũng chảy nước mắt, lúc mắt nhặm đỏ cũng vậy.
Nước mắt ấy, lúc sanh
không từ đâu đến, lúc diệt cũng chẳng đi đâu.
Nầy Ðại Vương có lúc
thủy giới trong thân tăng trưởng quá nhiều có thể diệt hỏa giới trong
thân. Lúc hỏa giới ấy diệt, nó không đi đến đâu. Có lúc hỏa giới trong
thân quá tăng thạnh hay làm khô cạn thủy giới trong thân. Lúc bị đốt cạn,
thủy giới ấy đi không đến đâu.
Nầy Ðại Vương ! Hỏa
giới và thủy giới trong thân ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó
chẳng đi đâu. Lúc sanh nó cũng không, thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương !Có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc thế giới nầy sắp hoại,
trong không gian nổi lên ba mươi hai lớp mây đầy trùm trắp tam thiên Ðại
Thiên thế giới đến năm trung kiếp mưa lớn không dứt, giọt mưa như tượng
vương đái. Sau đó lại trải qua năm trung kiếp mưa thật to lớn, nước ngập
đầy đến Phạm Thiên.
Nầy Ðại Vương ! Thủy
giới to lớn ấy, lúc đầu sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Lại
có lúc thế giới nầy hư hoại. Lúc sắp hoại, trong thế giới nầy có hai mặt nhựt xuất
hiện, bấy giờ suối nguồn sông nhỏ đều khô cạn.
Kế đến có bốn mặt
nhựt xuất hiện, bấy giờ nguồn nước của các sông lớn đều khô hết.
Kế đến có năm mặt
nhựt xuất hiện, bấy giờ nước trong đại hải lần lần khô cạn từ một do tuần,
lần lần khô cạn đến mười do tuần, trăm do tuần, ngàn do tuần, vạn do tuần,
đến bốn vạn bốn ngàn do tuần đều khô cạn.
Bấy giờ nước còn thừa
trong đại hải từ bốn vạn do tuần, lần lần còn ba vạn, hai vạn, một vạn,
chín ngàn, tám ngàn đến còn một ngàn do tuần, lần lần cạn còn thừa chín
trăm tám trăm đến một trăm do tuần, lần lần cạn còn thừa chín mươi đến còn
mười do tuần, cạn lần còn thừa chín đến một do tuần, cạn lần còn thừa năm
dặm đến mười đa la thọ , chín đến còn một đa la thọ, cạn lần cho đến chỉ
còn vũng ướt như dấu chơn.
Bấy giờ trong đại hải
chỉ còn chút tướng ẩm ướt như lúc tròi mưa thoạt ướt thoạt khô.
Lần đến lúc trong đại
hải hơi nước chỉ còn thắm mặt ngón tay.
Nầy Ðại Vương ! Thủy
giới ấy lúc lần lần diệt, nó đi chẳng đến đâu, mười phương đều không đến,
lúc sanh nó cũng không, lúc trụ nó cũng không, lúc diệt nó cũng không.
Tánh thủy giới ây bất khả đắc chỉ có riêng tác dụng thôi. Nhưng tác dụng
ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ không có tướng để được. Nầy Ðại vương hỏa
giới cũng có hai thứ : : nội và ngoại.
Nội hỏa giới là trong
thân chỗ có hỏa, hỏa thể, hỏa tướngvà nhiệt, nhiệt thể, nhiệt tướng. Ðó là
trong thân có hơi ấm nóng hay làm tiêu hóa thức uống ăn nhập vào số nhiệt
độ ấy.
Ngoại hỏa giới là
những hỏa, thể hỏa, tướng hỏa và hơi ấm nóng ở ngoài thân chẳng lấy chẳng
thọ ấy.
Nầy Ðại Vương ! Có
lúc ca la lã trong bào thai, thân nội hỏa giới tăng thạnh làm thủy giới
lần kém nên ca la lã đặc lần cứng lần. Như,đồ kim khí do hỏa lực mà lần
cứng rắn. Ca la lã cứng đặc thì gọi là yết bồ đàm. Yết bò- đàm do hỏa lực
mà thành tên là ty thi ca. Ty thi ca do hỏa lực mà thành tên là kiên cố.
Kiên
cố do hỏa lực mà thành mọc ra năm nhánh.
Ðúng vậy, nầy Ðại
Vương ! Thủy giới ấy do hỏa giới thành thục như vậy như vậy. Thủy giới ấy
lần đặc lần cứng mà thành khối thịt.
Nầy Ðại Vương! Lúc hỏa giới ấy sanh, nó không từ đâu lại, mà có thể đốt
tiêu thủy giới.
Nầy Ðại vương ! Có lúc trong thân người hỏa giới lần diệt tận. Vì hỏa giới
diệt tận nên đồ ăn uống không tiêu hóa mà người bệnh ấy không thể ăn uống
được. Vì không ăn uống được nên ho”a giới diệt hết mà người bệnh phải
chết.
Nầy Ðại Vương! Hỏa
giới lúc diệt, nó chẳng đi đến mười phương. Lúc sanh nó cũng không, lúc
diệt nó cũng không, mà hỏa giới ấy từ nào thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương! Có
thời kỳ thế giới hư hoại. Lúc thế giới hoại hỏa giới ngoài thân tăng thạnh
cháy đỏ suốt khắp cả tam thiên Ðại Thiên thế giới.
Nầy Ðại Vương ! Lửa
ngoài thân ấy, lúc sanh không tưé đâu đến.
Nầy Ðại vương ! Lại
có lúc khối lửa lớn ấy cháy khắp cõi Ðại Thiên rồi tắt. Lúc lửa ấy diệt, nó chẳng đến
đâu, chẳng đến mười phương.
Nầy Ðại Vương ! Hỏa giới ngoài thân ấy, lúc sanh cũng không, lúc diệt cũng
không, thể tánh nó tự không, chẳng phải có, chẳng thể được. Chỉ là riêng
dụng, nhưng riêng dụng ấy chẳng phải nam chẳng phải nữ.
Nầy Ðại Vương ! Phong
giới cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là phong giới trong thân ? Trong thân mình và trong thân người được có
phong giới bị thọ bị lấy, thể phong, danh phong, tốc tật, thể tốc tật,,
danh tốc tật. Ðó là ở nơi tứ chi là phong, ở nơi tỳ vị là phong đi nơi năm
vóc là phong, đi nơi lóng đốt chi phần là phong, hơi thở ra vào cũng là
phong. Nói tóm lại, đi khắp trong thân thể đều là phong.
Có lúc phong giới
trong thân ấy tăng thạnh tập hiệp có thể làm cho thủy giới khô khan, cũng
có thể làm tổn giảm hỏa giới, do đó thân người không nhuận trạch cũng
không ấm nóng, bụng phình trướng, tay chưn co cúng, các mạch máu căng đầy,
gân nóng rút giựt rất đau khổ hoặc phải chết.
Nầy Ðại Vương ! Phong
giới trong thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.
Nầy Ðại vương !Người bịnh phong ấy
hoặc gặp lương y cho đúng thuốc hay nên bịnh phong dứt hết. Lúc phong giới
ấy diệt, cũng không đi đâu. Lúc nó sanh cũng không, lúc nó diệt cũng
không, thể tánh nó tự không.Gì là phong giới ngoài thân ?
Nầy Ðại Vương ! Ngoài
thân được có , thân chẳntg thủ chẳng thọ, thể phong, danh phong, tốc tật,
danh tốc tật, đây gọi là phong giới ngoài thân.
Nầy Ðại Vương ! Có
lúc ngoại phong giới ấy tăng thạnh tập hiệp làm rụng lá gãy nhánh, gãy cây
trốc gốc, lở non ngã núi, tan nátthành vi trần, cả cõi Ðại Thiên nầy bị
gió mạnh ấy thổi lăn chuyển xoay tròn. Như thợ gốm lấy gậy xoay chuyển
vòng khuôn, cõi Ðại Thiên nầy bị gió thổi xoay tròn cũng vậy. Như chút ít
bột mịn bị gió thổi tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên nầy bị gió mạnh thổi
tan thành vi trần cũng khó thấy được . Như lúc có gió lớn lấy nắm đất rải
theo gió bay tan khó thấy được, cõi Ðại Thiên nầy lúc bị gió mạnh thổi tan
cũng khó thấy được như vậy.
Nầy Ðại Vương phong
giới ngoài thân ấy, lúc sanh không từ đâu đến.Lại như đầu mùa hạ không gió cây cỏ khô héo.
Nầy Ðại Vương ! Ngoại
phong giới ấy, lúc diệt nó không đi đâu.
Phong giới ấy lúc
sanh cũng không, lúc diệt cũng không, thể tánh nó tự không.
Nầy Ðại Vương !Nội phong giới và
ngoại phong giới ấy cả hai đều không. Thể tánh nó tự ly, tướng cũng tự ly,
tánh cũng bất khả đắc, tướng diệt cũng ly.
Tại sao ? Vì phong
giới ấy chẳng phải tác, không có tác giả vậy.
Nầy Ðại Vương ! Gì là
hư không giới ? Nó cũng có hai thứ : nội và ngoại.
Gì là nội hư không
giới ? Hoặc trong thân mình, hoặc trong thân người được thọ được lấy, đó
là hư không, thể hư không, danh hư không, trong thân sanh ra ấy nhập vào
số các ấm các xứ và các giới bao nhiêu những lỗ huyệt. Ðây gọi là nội hư
không giới.
Gì là ngoại hư không
giới ? Ðó là ngoài thân có chẳng phải sắc, rỗng không nhẫn đến không có lông nhỏ ấy
gọi là hư không. Ðây gọi laé ngoại hư không giới.
Nầy Ðại Vương có lúc
do nghiệp nhơn duyên nên sanh các nhạ-p. Các nhập ấy được sanh rồi vây
quanh không giới, bấy giờ được gọi là vào số nội hư không giới.
Nầy Ðại Vương trong mỗi mỗi pháp như vậy suy cầu không một nhãn nhập có
thể được, chỉ có tác dụng.
Nầy Ðại Vương do có
gì mà không ? Vì địa giới thanh tịnh vậy. Như địa giới thanh tịnh nên
không, thủy hỏa phong giới thanh tịnh nên cũng không như vậy, nó không từ
đâu đến.
Nầy Ðại Vương ! Có lúc tất cả các sắc đều hoại diệt làm hư không. Tại
sao ? Vì hư không giới vô tận vậy.
Nầy Ðại Vương ! Chỉ
nội hư không giới an trụ bất động.
Như vô vi Niết bàn
giới an trụ bất động, phải biết hư không giới khắp tất cả chỗ cũng vậy.
Nầy Ðại Vương !Như có
người ở đồng hoang trống đào đất làm ao làm giếng. Ý Ðại Vương thế nào, hư
không ấy từ đâu đến ?
-
Bạch Thế Tôn ! Nó không từ đâu đến.
-
Nầy Ðại Vương ! Nếu người ấy lấy đất đắp lại. Ý Ðại Vương thế nào,
hư không ấy đi đến đâu ?
-
Bạch Thế Tôn ! Nó không đi đến đâu. Tại sao ? Bạch Thế Tôn ! Hư
không giới ấy không đến không đi. Tại sao ? Vì hư không giới ấy chẳng phải
nam chẳng phải nữ vậy
-
Nầy Ðại Vương ! Ngoại hư không giới cũng bất động tánh nó không
biến đổi. Hư không giới rỗng không chẳng phải là pháp có. Tại sao ? Vì hư
không giới chẳng phải nam chẳng phải nữ vậy.
Nầy Ðại Vương !
Gì là thức giới ?
Như nhãn làm chủ phan
duyên nơi sắc, vì đối sắc mà biết nên thức sanh ra hoặc biết được xanh
vàng đỏ trắng các màu sắc, cũng biết được dài vắn to nhỏ các hình sắc. Tất
cả những vật sắc mà nhãn thức thấy được ấy gọi là nhãn thức giới.
Cũng vậy, hoặc biết tiếng , biết hương, biết vị, biết xúc, hoặc biết pháp,
hoặc biết sáu căn ssở duyên sở tri thì gọi đó là nhĩ thức giới đến gọi là
ý thức giới.
Nầy Ðại Vương ! Lại
thức giới ấy chẳng y nương các căn, cũng chẳng y nương nơi giới. Tại sao ?
Vì chẳng phải địa tịnh sắc làm nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong tịnh
làm nhãn nhập. Tại sao ? Chẳng phải địa giới thanh tịnh và các pháp khác
làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập, chẳng phải thủy hỏa phong giới
thanh tịnh sắc và các pháp khác làm nhãn nhập và người có đủ nhãn nhập.
Tại sao ? Vì các pháp vô tri vô liễu biệt vậy, không kham năng vậy, chẳng
phải sơ trung hậu vậy, chẳng phải nội ngoại trung gian vậy.
Nầy Ðại Vương : Thức
giới ấy biết cảnh trước rồi liền dứt mất chẳng còn sanh lại. Thức ấy lúc
sanh không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không chỗ đến.
Nầy Ðại Vương ! Gì
gọi là nhãn nhập ?
Ðó là bốn đại chủng
cấu thành sắc thanh tịnh. Các pháp thể tánh nếu là tự không, thì có gì là
thanh , có gì là trược. trong các pháp không có tịnh uế thì sao lại ở
trong các pháp mà thấy có tịnh uế.
Như vậy, nầy Ðại
Vương ! Vì thế nên biết nhãnh nhạ-p quyết định thể tánbh cứu cánh không
tịch, tiền tế hậu tế đều bất khả đắc. Tại sao ?
Vì vị lai chưa đến
nên bất khả đắc, quá khứ đã diệt nên cũng bất khả đắc. Vị lai và sự vị lai
bất khả đắc. Nhãn xứ ấy cũng bất khả đắc, vì tự tánh ly vậy. Nếu thể tánh
bất khả đắc thì cũng không có được tánh nam và tánh nữ. Ðã không có tánh
nam và tánh nữ thì nào có ngã ngã sở.
Nầy Ðại Vương ! Nếu
có ngã ngã sở, đó là cảnh giới ma . Không ngã không ngã sở thì gọi là cảnh
giới chư Phật Như Lai. tại sao ? Vì tất cả pháp ly ngã ngã sở vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như
thiệt biết rõ nhãn nhập không, nhãn nhập tự tánh không, tại sao ? Vì nhãnh
nhập ấy tướng nó bất khả đắc, thế nên nhãn nhập ấy thể tánh nó không tịch.
Tánh không ấy ly tướng nhãn nhập, đây gọi là vô tướng. Ở nơi tướng không
mong cầu nên gọi là vô nguyện. Ðây là ở nơi nhãn nhập ba môn giải thoát
hiện ra trước.
Nầy Ðại Vương ! Gì là
nhĩ nhập giới đến thân nhập giới ?
Nầy Ðại Vương! Tất cả
pháp ấy đối ba giải thoát môn, hiện tiền quyết định đến pháp giới cứu cánh
khắp hư không, chẳng gọi được, chẳng nói được, chẳng dùng được, chẳng chỉ được, không tranh
luận, không ngữ ngôn, chẳng đo lường được.
Nầy Ðại Vương ! Ðem nhãn đối sắc gọi là điên đảo, nhĩ đối thanh, tỷ đối
hương, thiệt đối vị, thân đối xúc, ý đối pháp, gọi là điên đảo. Vì thế các
pháp gọi là ý cảnh giới.
Nầy Ðại Vương ! Nhãn
nhập đối sắc qua thấy lấy dính có ba thứ ngại : ngó thấy cảnh thuận sanh ý
tưởng ái luyến, nếu thấy cảnh trái sanh ý tưởng sân khuể, thấy cảnh trung
dung sanh ý tưởng không tham không sân, năm nhập kia đối cảnh cũng có ba
thứ ngại như vậy, nếu duyên cảnh thuận sanh tâm ái, duyên cảnh nghịch sanh
tâm sân, duyên cảnh trung dung sanh tâm ngu hoặc. Cảnh giới như vậy là chỗ
sở hành của ý. Vì ý đi khắp nên gọi là ý cảnh giới.
Nầy Ðại Vương ! Ý ấy
hành nơi sắc thuận thì sanh tham dục, hành nơi ssác trái thì khởi sân nộ,
hành sắc trung dung thì khởi ngu si. Như vậy, ý hành nơi thanh hương vị
xúc cũng đều có ba sự khởi tham sân si. Nghĩa là ý duyên cảnh thuận ý pháp
sanh tham dục, ý duyên cảnh trái ý pháp sanh sân khuể, ý duyên cảnh trung
dung ý pháp sanh khởi vô minh ngu si.
Nầy Ðại Vương !Phải
như vậy mà biết nơi các căn dường như ảo hóa, biết cảnh giới ấy như mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như
người trong mộng cùng các thể nữ và đại chúng vui vầy. Người ấy sau khi
thức dậy ghi nhớ sự việc trong mộng nào đại chúng nào các thể nữ. Ý Ðại
Vương thế nào, sự việc được thấy trong mộng có thiệt chăng ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt
-
Nầy Ðại Vương ! Người ấy đang lúc ở trong mộng cho là thiệt, có
phải là trí chăng ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không phải trí. Tại sao ? Ðại chúng và thể nữ được
thấy trong mộng cứu cánh là không, cũng là bất khả đắc, huống lại cùng
nhau vui vầy. Người ấy chỉ tự khổ nhọc, trọn không có thiêt.
-
Nầy Ðại Vương ! Các phàm phu ngu si không học chánh pháp, thấy sắc
khả ý, mắt thấy sắc rồi sanh lòng chấp trước, sanh chấp trước rồi khởi
lòng ái trọng, khởi ái trọng rồi sanh tâm nhiễm trước,sanh nhiễm trước rồi
làm nghiệp trước, đó là thân ba nghiệp, khẩu bốn nghiệp và ý ba nghiệp,
tạo nghiệp rồi liền dứt mất, nghiệp ấy dứt rồi nó chẳng y nương
Ở mười phương,
nghiệp ấy nhẫn đến lúc lâm chung thức tối hậu diệt thấy việc từ trước hiện
ra trong tâm tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người
ấy, tự phần nghiệp dứt hết, nghiệp khác hiện ra, giống như từ mộng thức
dậy rồi nhớ sự việc trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy, thức tối hậu làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên,
do hai duyên ấy mà trong phần sanh thức tâm bắt đầu khởi hoặc sanh địa
ngục, hoặc sanh súc sanh, hoặc sanh giới diêm ma la, hoặc sanh A Tu La,
hoặc sanh trong Nhơn Thiên. Thức trước đã diệt, sanh phần thức sanh, sanh
phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! không
có một pháp nào từ đời nầy đến đời khác, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã
làm và thọ quả ba 1o đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp,
cũng không người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Lúc
tối hậu thức ấy diệt gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy Ðại Vương ! Hậu
thức ấy lúc khởi không từ đâu đến, lúc nó diệt cũng không đến đâu. Duyên
ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến
đâu. Nghiệp ấy lúc sanh không từ đâu đến, lúc diệt không đến đâu. Tử ấy
lúc tử không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sơ thức lúc sanh
không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu. Sanh ấy không từ đâu đến,
lúc diệt cũng không đến đâu. Tại sao ? Vì tự tánh ly vậy.
Hậu thức ấy, thể tánh
hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp ấy, nghiệp thể tánh
không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ, thể
tánh thọ không. Thế gian, thể tánh thế gian
không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không.Khởi, thể tánh khởi không. Hoại,
thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương ! Như
vậy, tác nghiệp và quả báo không hư mất, không có người tác nghiệp, cũng
không có người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt
nghĩa.
Nầy Ðại Vương! Phải
biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát
môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Ðã không có
tướng thì cũng không có nguyện cầu gọi là vô nguyện giải thoát môn.
Nầy Ðại Vương ! Như
vậy tất cả pháp đều đủ ba môn giải thoát, cùng với không đi chung, đường
trước là Niết bàn, xa rời các tướng, xa rời nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn
giới, quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương! Nên biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ
phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như
người trong mộng đấu với kẻ oán thù. Người ấy thức dậy rồi ghi nhớ cùng kẻ
địch đấu nhau. Ý Ðại Vương thế nào, sự thấy trong mộng có thiệt chăng?
-
Bạch Thế Tôn! Không có thiệt.
-
Nầy Ðại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho sự ấy là thiệt thì có
phải là trí chăng ?
-
Bạch Thế Tôn !
Không phải là trí . Tại sao ? Vì trong mộng cứu cánh không có kẻ oán địch,
huống là chiến đấu. Người ấy huống tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
Nầy Ðại Vương ! Cũng
vậy, hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp, mắt thấy sắc bát khả ái,
lòng họ chẳng vui thích mà sanh chấp trước rội khởi tâm sân khuể làm cho
tâm trược loạn mà tạo nghiệp sân nơi thân ba, miệng bốn, ý ba thứ nghiệp.
Nghiệp ấy được tạo xong liền
dứt mất. Nghiệp ấy dứt rồi chẳng nương ở mười phương. Nghiệp ấy đến lúc
lâm chung tối hậu thức diệt thấy việc làm từ trước hiện ra trong tâm
tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người
ấy thấy nghiệp ấy hiện rồi, lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết, nghiệp
khác hiện ra, như lúc thức dậy nhớ sự trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như
vậy tối hậu thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên. Do hai duyên ấy mà
trong sanh phần thức tâm bắt đầu khởi, hoặc sanh địa ngục súc sanh ngạ
quỉ, hoặc sanh A Tu La Nhơn Thiên. Thức trước diệt rồi, sanh phần thức
sanh. Sanh phần tương tục tâm chủng loại chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không
có một pháp nào từ đời nay đến đời sau nhưng mà có sanh diệt thấy nghiệp
đã làm và thọ quả báo đều chẳng hư mất. Không có người tác nghiệp cũng
không có người thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu
thức ấy lúc diệt thì gọi là tử số, nếu sơ thức sanh thì gọi là sanh số.
Nầy Ðại Vương ! Hậu
thức ấy lúc khởi , nó không từ đâu đến, đến lúc diệt nó cũng không đến
đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh
nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc tử cũng
không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức lúc sanh
không từ đâu đến , lúc diệt cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh
không từ đâu đến, lúc diệt cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh
ly vậy.
Hậu thức ấy, thể tánh
hậu thức không. Duyên ấy, thể tánh duyên không. Nghiệp á-y, thể tánh
nghiệp không. Tử ấy, thể tánh tử không. Sơ thức ấy, thể tánh sơ thức
không. Thọ sanh ấy, thể tánh thọ sanh không. Thế
gian, thể tánh thế gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi ,
thể tánh khởi không. Hoại, thể tánh hoại không.
Nầy Ðại Vương !Tác
nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư. Không
người tác nghiệp cũng không
người thọ báo, chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt nghĩa.
Nầy Ðại Vương ! Phải
biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát
môn. Không ấy không có tướng không nên là vô tướng giải thoát môn.Nếu đã
vô tướng thì không có nguyện cầu nên gọi là vô nguyện giải thoát môn. Tất
cả pháp đều đủ ba môn giải thoát cùng đi chung với không, Niết bàn là con
đường trước, xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu, cứu cánh Niết bàn giới,
quyết định như pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải
biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng, tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như có người ở trong chiêm bao bị quỉ nhiễu não lòng họ
kinh sợ. Thức dậy, người ấy ghi nhớ quỉ trong mộng. Ý Ðại Vương thế nào,
quỉ được thấy trong mộng có thiệt chăng?
-
Bạch Thế Tôn ! Không có thiệt.
-
Nầy Ðại Vương ! Người ấy ở trong mộng cho là thiệt thì có phải là
trí chăng ?
-
Bạch Thế Tôn !
Không phải là trí. Tại sao ? Vì trong mộng quỉ còn không có huống là sợ. Người ấy luống
tự nhọc nhằn đều không có thiệt.
-
Nầy Ðại vương ! Cũng vậy hàng phàm phu ngu si không học chánh pháp,
mắt thấy xả xứ sắc lòng họ chấp trước rồi tạo nghiệp chấp trước nơi thân
ba miệng bốn ý ba thứ nghiệp. Nghiệp ấy được tạo rồi liền dứt mất. Nghiệp
ấy diệt rồi chẳng nương ở mười phương.
Nghiệp ấy đến lúc lâm chung, tối
hậu thức diệt thấy nghiệp đã tạo từ trước hiện ra trong tâm tưởng.
Nầy Ðại Vương ! Người ấy thấy rồi lòng họ kinh sợ, tự phần nghiệp hết,
nghiệp khác sanh ra, giống như thức dậy nhớ sự việc trong mộng.
Nầy Ðại Vương ! Như vậy tối hậu
thức làm chủ, nghiệp ấy làm nhơn duyên, do hai duyên ấy mà trong sanh phần
thức tâm ban đầu khởi, hoặc sanh địa ngục v.v… đến sanh trong Nhơn Thiên.
Thức trước diệt, sanh phần thức sanh, sanh phần tương tục tâm chủng loại
chẳng tuyệt.
Nầy Ðại Vương ! Không
một pháp nào từ đời nay đến đời sau, mà có sanh diệt thấy nghiệp đã làm và thọ
quả báo đều chẳng mất hư. Không có người tác nghiệp và thọ báo.
Nầy Ðại Vương ! Hậu
thức ấy lúc diệt gọi là tử số. Nếu sơ sanh gọi là sanh số.
Hậu thức ấy , lúc
khởi không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Duyên ấy, lúc sanh nó
không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Nghiệp ấy, lúc sanh
nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tử ấy, lúc sanh nó
không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Sơ thức ấy, lúc sanh
nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Thọ sanh ấy, lúc sanh
nó không từ đâu đến, lúc diệt nó cũng không đến đâu.
Tại sao ? Vì tự tánh
ly vậy.
Hậu thức, thể tánh
hậu thức không. Duyên, thể tánh duyên không. Nghiệp, Thể tánh nghiệp
không. Tử, thể tánh tử không.Sơ thức, thể tánh sơ thức không. Thọ sanh,
thể tánh thọ sanh không. Thế gian, thể tánh thế
gian không. Niết bàn, thể tánh Niết bàn không. Khởi, thể tánh khởi không.
Nầy Ðại Vương !
Tác nghiệp và quả báo như vậy đều chẳng mất hư , không người tác nghiệp
cũng không người thọ báo. Chỉ theo thế tục mà có chớ chẳng phải đệ nhứt
nghĩa.
Nầy Ðại Vương !Phải
biết tất cả pháp đều không tịch. Tất cả pháp không ấy là không giải thoát
môn. Không ấy không có tướng không là vô tướng giải thoát môn. Nếu đã vô
tướng thì không nguyện cầu là vô nguyện giải thoát môn. Tất cả pháp đều đủ
ba môn giải thoát, cùng đi chung với không. Niết bàn là con đường trước,
xa lìa các tướng, xa lìa nguyện cầu cứu cánh Niết bàn giới, quyết định như
pháp giới, khắp hư không tế.
Nầy Ðại Vương ! Phải
biết các căn như ảo, cảnh giới như mộng. Tất cả thí dụ phải biết như vậy.
Nầy Ðại Vương ! Như
người trong mộng thấy nữ nhơn đoan chánh đệ nhứt trong nước, ở bên nữ nhơn
ấy được nghe âm nhạc vi diệu khả ái. Người ấy gần nữ nhơn nghe âm nhạc
thọ vui ngũ dục. Sau khi thức dậy, người ấy ghi nhớ âm nhạc vi diệu khả ái
trong mộng. Ý Ðại vương thế nào, âm nhạc được nghe trong mộng có thiệt
không ?
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|