× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 15: VĂN THÙ SƯ LỢI THỌ KÝ THỨ MƯỜI LĂM 2

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu năm pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là năm? 

Một là Bồ Tát đến chỗ pháp sư thăm hỏi tu những công hạnh gì có thể được Phật độ thanh tịnh trang nghiêm? Nếu được nghe, như lời tu hành.

Hai là do Bồ Tát trì giới thanh tịnh và nguyện lực nên sanh trong Phật quốc. Được sanh Phật quốc rồi quan sát nước ấy nhiều thứ trang nghiêm các thứ đồ dùng báu đẹp, chúng Thanh Văn và Bồ Tát thân tướng vi diệu. Đối với Phật cung kính tôn trọng bạch hỏi Bồ Tát tu những công hạnh gì được Phật độ rộng lớn thanh tịnh trang nghiêm? Được Phật dạy cho rồi như pháp tu hành. 

Ba là Bồ Tát có trí hành, phải tịnh trí ấy, phải tấn hành ấy. Thế nào là tịnh trí? Đó là ở nơi pháp năng duyên và pháp sở duyên xa rời trí Thanh Văn và Duyên Giác. Thế nào là tấn hành? Đó là như chỗ được nghe quyết định tu hành, rời lìa chẳng tu hành. 

Bốn là Bồ Tát khéo biết nhơn sanh tử và biết xuất ly. Nhơn sanh tử là chẳng chánh tư duy, đây là chỗ y chỉ của bốn điên đảo làm nhơn sanh tử. Xuất ly là chánh tu hành, với tất cả pháp chẳng sanh phân biệt đó là xuất ly vậy. 

Năm là chỗ Bồ Tát biết rõ thể tánh chư Phật và tánh quốc độ đều chỉ có giả danh, giả danh cũng tịch diệt. Biết rõ như vậy nên chẳng sanh khởi tri tưởng. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu sáu pháp khiến mau được vô thượng Bồ đề, cũng hay nhiếp lấy Phật độ tối thượng: 

Một là Bồ Tát làm đại thí chủ, bao nhiêu vật sở hữu trân ngoạn khả ái đều hoan hỉ bố thí chẳng tiếc, lại nghĩ rằng tôi làm bố thí lớn để viên mãn Đại thừa. Nghĩa là lúc cầu vô thượng Bồ đề, tất cả đều xả thí, lòng không luyến tiếc, đầy đủ thành tựu tư lương Bồ đề, bỏ thân mạng nầy còn chẳng hối tiếc, huống là tư sản vợ con. Nầy Xá Lợi Phất! Cớ chi Như Lai được gọi là đấng Nhứt thiết trí? đó là lúc tu Bồ Tát hạnh, nơi sở hữu của mình đều xả bỏ tất cả, do đó được Bồ đề rồi gọi là Nhứt thiết trí.

Hai là Bồ Tát tại gia hay xuất gia, thà bỏ thân mạng chớ trọn chẳng phá giới. Đem sự trì giới ấy cùng chúng sanh hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Trì giới như vậy tự cảm thấy vui mừng thích tu phạm hạnh, ngày đêm an vui càng siêng cầu pháp an trụ chánh tu hành, chán sợ tam giới mong cầu thoát ly. Dầu thấy sức yếu mà nhớ đến chúng sanh, họ cũng khổ như tôi, tôi sẽ gánh lấy gánh nặng ấy nhiếp lấy chúng sanh đặt tại Niết bàn an lạc. Trì giới như vậy lúc tự giác hỉ liền được tâm đại bi, nhẫn đến khi chưa được Nhứt thiết chủng trí chẳng bỏ tinh tấn xem như tự cứu lửa cháy đầu. 

Ba là Bồ Tát mặc giáp nhẫn nhục rời cao mạn được sức đại nhẫn, nếu bị mắng hay đánh, tâm nhẫn thành tựu chẳng sanh sân hận. Giả sử có gậy lớn như núi Tu Di, có người cầm đánh mắng suốt cả ức kiếp cũng chẳng sanh lòng oán giận. Tại sao? Vì các chúng sanh ấy chẳng theo Phật học, mà tôi thì đương theo Phật học, được họ đánh mắng bao nhiêu thêm lớn đại bi bấy nhiêu. Tôi phải mặc giáp hoằng thệ nhiếp thủ chúng sanh làm cho họ được giải thoát nhập Niết bàn, vì thế nên tôi chẳng nên sân hận. Bồ Tát lúc đương an trụ nhẫn lực như vậy thì thành tựu mười điều đầy đủ: một là chủng tánh, hai là tài sản, ba là quyến thuộc, bốn là sắc tướng, năm là thiện xả, sáu là thiện hữu, bảy là được nghe chánh pháp, tám là như lời nói tu hành, chín là lúc mạng chung được thấy chư Phật, mười là được thấy Phật rồi sanh lòng tin thanh tịnh.  

Bốn là Bồ Tát vì muốn thành tựu thiện pháp nên kiên cố tự định thời khóa phát khởi tinh tấn, lại vì mỗi mỗi chúng sanh mà tận thuở vị lai ở trong sanh tử thứ đệ tu hành các hạnh tinh tấn chẳng mỏi mệt. Đem công nghiệp tự định khóa và đại bi ấy vì tất cả chúng sanh trong tất cả thời gian lúc còn lưu chuyển sanh tử chẳng bỏ chúng sanh.

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát đem thất bửu đầy hằng sa thế giới mười phương, trong mỗi niệm, dâng lên đức Như Lai, cúng dường nối tiếp như vậy mãi đến tận vị lai tế. 

Nếu có Bồ Tát phát tâm đại bi mặc giáp tinh tấn, công đức nầy nhiều hơn công đức kia. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát có đủ tinh tấn nầy thì được mười thứ pháp chi nguyện thù thắng. Những gì là mười? 

Một là rời lìa hạnh phàm ngu. Hai là nhiếp thọ hạnh Phật. Ba là thấy lỗi sanh tử. Bốn là an trụ tâm đại bi. Năm là chẳng thối thất tâm bổn nguyện. Sáu là ít bịnh tật. Bảy là thuận chư Phật giáo. Tám là mỏng nhẹ dâm nộ si. Chín là theo văn rõ nghĩa. Mười là tu hành thành tựu. 

Năm là Bồ Tát nghĩ rằng chư Phật Như Lai tâm thường ở tại chánh định chưa hề thất niệm, tôi phải theo chỗ làm của Phật. Nếu tâm tán loạn thì trọn chẳng chứng được chỗ làm của Phật. Vì thế nên phải rời bỏ tất cả tâm chấp lấy, cũng bỏ tất cả lợi dưỡng cung kính tụ lạc thành ấp uống ăn đồ cần dùng và các thân hữu. Vì muốn lợi ích các chúng sanh nên chẳng bỏ chúng sanh. Thường ưa ở a lan nhã chỗ tịch tĩnh, độc hành không bạn như con tê giác một sừng. Ở chỗ tịch tĩnh rồi khởi tâm đại từ ban đầu khắp một phương rồi lần lần đến khắp mười phương đến khắp chúng sanh. Tâm từ khắp cả rồi được nhập thiền định. 

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có Bồ Tát tại gia đem tất cả đồ dùng đáng ưa thích cúng dường tất cả hằng sa chư Phật và Tỳ Kheo Tăng trong hằng sa kiếp. Nếu có Bồ Tát xuất gia đi bảy bước hướng đến chỗ a lan nhã tịch tĩnh, phước đức nầy hơn phước đức kia nhiều. Vì có thể mau được đại Bồ đề vậy.

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ưa ở tịch tĩnh nhập thiền định thì được mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười? Một là được niệm, hai là được huệ, ba là tu hành, bốn là biện luận mau, năm là được Đà la ni, sáu là khéo biết pháp sanh, bảy là khéo biết pháp diệt, tám là giới tụ chẳng phạm, chín là chư Thiên cúng dường, mười là chẳng tham sự tốt của người. 

Sáu là Bồ Tát khéo biết trí huệ chẳng lưu, đó là trí huệ lấy giới làm đầu, pháp lành tăng trưởng lấy huệ làm đầu. Vì thế nên Bồ Tát phải học trí huệ. Thế gian có bao nhiêu tất cả công xảo khó làm khó thành, tất cả y dược đều học hết mà sự thông hiểu nầy chẳng chứng nhập được ly dục tịch diệt, cũng chẳng thể xu hướng Bồ đề, chẳng phải hướng Sa Môn, Bà La Môn, chẳng phải xu hướng Niết bàn. Vì thế nên nay tôi phải lại khắp cầu công xảo pháp dược, do trí nầy khiến tôi được cứu cánh tịch diệt. Bồ Tát cầu pháp bổn: chẳnh thấy chút pháp hay khởi được pháp. Do chẳng thấy nên an trụ nơi tịch diệt. Do an trụ tịch diệt thì không nhiệt não. Do không nhiệt não nên biết rõ sanh tử, vì chúng sanh mà thọ sanh để làm cho chúng sanh trừ diệt khổ sanh tử vậy. Đây là sáu pháp. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu bảy pháp khiến sở hữu chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bảy? 

Một là tự bỏ tất cả, mà thí bất khả đắc vậy. 

Hai là chẳng khuyết phạm, mà chẳng dính mắc nơi giới vậy. 

Ba là nhẫn nhục nhu hòa, mà chúng sanh bất khả đắc vậy. 

Bốn là phát khởi tinh tấn, mà thân tâm bất khả đắc vậy. 

Năm là thành tựu thiền định, mà chẳng trụ nơi thiền vậy.

Sáu là trí huệ viên mãn, mà vô phân biệt vậy. 

Bảy là tùy niệm chư Phật, mà xa rời tướng vậy. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu tám pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là tám? 

Một là chẳng thích Niết bàn, hai là bố thí đồ trang nghiêm, ba là tâm quảng đại, bốn là tôn kính Pháp Sư, năm là chẳng làm tà mạng, sáu là bình đẳng ban cho, bảy là chẳng tự căng cao, tám là chẳng khinh miệt người. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu chín pháp khiến nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là chín? 

Một là đủ thân luật nghi, hai là đủ ngữ luật nghi, ba là đủ ý luật nghi, bốn là diệt các tham dục, năm là diệt các sân hận, sáu là diệt các ngu si, bảy là chẳng làm điều khi dối, tám là làm bạn kiên cố, chín là chẳng khinh mạn thiện tri thức. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu mười pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là mười? 

Một là nghe địa ngục khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ. 

Hai là nghe súc sanh khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ. 

Ba là nghe ngạ quỉ khổ chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ. 

Bốn là nghe chư Thiên suy não chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ. 

Năm là nghe nhơn gian đói khát giặc cướp oán địch giết hại chỉ khởi đại bi mà chẳng kinh sợ. 

Sáu là Bồ Tát tự nghĩ: Giờ đây tôi phải phát khởi tinh tấn, nhẫn đến chưa được Phật độ thanh tịnh trọn chẳng lười trễ. 

 Bảy là khiến trong nước tôi đồ uống ăn y phục theo ý niệm liền được. 

Tám là các chúng sanh trong nước tôi thọ mạng vô lượng. 

Chín là các chúng sanh trong nước tôi không tâm bỉ ngã. 

Mười là bao nhiêu chúng sanh trong nước tôi quyết định xu hướng Vô thượng Bồ đề. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát cầm hoa đẹp đến chỗ Như Lai, hoặc chỗ tháp Phật mà cúng dường thì nguyện rằng: Nguyện hoa đẹp nầy sắc hương thù thắng, người thấy hoa đều vui đẹp. Lúc tôi thành Phật, khiến trong nước tôi khắp nơi đầy những hoa đẹp như vậy, và những cây báu trang nghiêm mọi chỗ. Nhẫn đến hương bột hương thoa y phục uống ăn lọng báu tràng phan vàng bạc lưu ly chơn châu các thứ báu lúc dùng cúng dường cũng phải như hoa, hồi hướng công đức trang nghiêm Phật độ. Do vì Bồ Tát an trụ nơi giới luật nên tùy tâm sở nguyện đều được thành tựu. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát phải thường nhiếp lấy mười nghiệp đạo thiện đều hồi hướng Nhứt thiết chủng trí. Vì thế nên lúc Bồ tát thành phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh lúc sơ sanh đều có đủ mười nghiệp đạo thiện và trí xuất ly. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đến đâu cũng khuyên các chúng sanh đều xu hướng Vô thượng Bồ đề. Chỉ ca ngợi Phật thừa mà chẳng nói đến nhị thừa và công pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các chúng sanh quyết định sẽ được Vô thượng Bồ đề, xa rời Thanh Văn và Bích Chi Phật. Có vô lượng Bồ Tát đầy trong nước ấy. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đối với lợi dưỡng của người chẳng hề ngăn dứt, thấy người được lợi thì vui mừng. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy bao nhiêu chúng sanh có những đồ vật cần dùng không hề đoạn dứt, đầy đủ được đại pháp quang minh. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát nếu thấy Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni có ai phạm tội thì trọn chẳng đem rao nói, chỉ tự mình an trụ trong chánh pháp. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả không có danh từ tội lỗi. Tại sao? Vì đại chúng trong nước ấy đều được thanh tịnh không có pháp tội lỗi. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thích pháp cầu pháp chẳng sanh nhiệt não, như pháp đã được nghe an trụ đúng mà tu hành. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy tất cả chúng sanh đều thích pháp cầu pháp không có nhiệt não, tu hành đúng pháp. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát đem các thứ âm nhạc cúng dường Phật pháp hồi hướng thiện căn về công đức trang nghiêm Phật độ. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy có trăm ngàn âm nhạc tự nhiên hòa tấu. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát nếu thấy chúng sanh thất niệm thì làm cho họ được chánh niệm. Vì thế nên lúc Bồ Tát thành Phật, trong Phật độ ấy các hàng đệ tử được thiền duyệt thực. 

Nầy Xá Lợi Phất! Phật độ công đức như vậy, đầy đủ biện tài Như Lai, hoặc một kiếp, hoặc hơn một kiếp nói kể chẳng hết được. 

Nầy Xá Lợi Phất! Nhưng nay Phật tùy theo chỗ thích muốn của chư Bồ Tát mà lược nói như vậy. Người có chí nguyện thù thắng nghe rồi xu hướng sẽ được viên mãn công đức Phật độ. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu ba pháp mau được Vô thượng Bồ đề cầu Phật độ đều được thành. Những gì là ba? Một là đại nguyện thù thắng, hai là an trụ chẳng phóng dật, ba là như pháp được nghe phát khởi chánh tu hành". 

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai hi hữu khéo nói pháp ấy. Vì đức Thế Tôn an trụ bất phóng dật nên được pháp Bồ đề phần. Vì an trụ chánh tu hành nên được đại Bồ đề. Vì an trụ thắng nguyện nên được Phật độ công đức trang nghiêm". 

Đức Phật nói ; "Đúng vậy, đúng như lời ông nói. Như thuở trước, Phật dùng đại nguyện lực thành tựu Phật độ, vì chẳng phóng dật nên được đại Bồ đề. 

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu chỉ có ngôn thuyết an trụ phóng dật mà chẳng chánh tu hành, người ấy còn chẳng đến được bực Thanh Văn huống là có thể được Vô thượng Bồ đề. Vì thế nên Bồ Tát nếu muốn tự biết mình là chơn Bồ Tát thì như sở học của Bồ Tát phải học như vậy". 

Bây giờ trong hội có bốn vạn Bồ Tát đứng dậy chắp tay hướng Phật mà đồng thanh bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Như đức Phật đã thọ ký chỗ học của Bồ Tát, chúng tôi sẽ học theo an trụ chẳng phóng dật tu hành thành tựu đầy đủ đại nguyện nghiêm tịnh Phật độ". 

Đức Phật vui vẻ mỉm cười. 

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật có duyên cớ gì mà hiện mỉm cười?

 Đức Phật hỏi: "Ông có thấy chư thiện nam tử sư tử hống ấy chăng?". 

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: "Vâng, đã thấy". 

Đức Phật nói: "Nầy Xá Lợi Phất! Các thiện nam tử ấy, quá trăm ngàn kiếp, đều riêng ở cõi khác được Vô thượng Chánh giác đồng hiệu Nguyện Trang Nghiêm Như Lai đủ mười đức hiệu cũng như đương lai Sư Tử Phật v.v... Cõi ấy thanh tịnh như nước của Vô Lượng Thọ Phật chỉ trừ thọ lượng đều thọ mười kiếp". 

Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát liền từ tòa đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi đồnh chơn Bồ Tát đây được chư Phật Thế Tôn thường khen tặng, bao lâu sẽ được Vô thượng Bồ đề? Phật độ sẽ được như thế nào". 

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Ông nên hỏi Văn Thù Sư Lợi".

 Sư Tử Dũng Mãnh hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng: "Chừng nào Ngài sẽ được Vô thượng bồ đề?". 

Văn Thù Sư lợi nói: "Sao Ngài chẳng hỏi tôi có xu hướng Bồ đề chăng mà lại hỏi tôi thành Bồ đề. Tại sao? Vì ở nơi Bồ đề, tôi còn chẳng xu hướng huống là sẽ được". 

Sư Tử Dũng Mãnh hỏi: "Ngài há chẳng vì lợi ích chúng sanh mà đến Bồ đề ư?". 

Văn Thù Sư Lợi nói: "Không. Tại sao? Vì chúng sanh bất khả đắc vậy. Nếu chúng sanh là có thì có thể vì làm lới ích mà hướng đến Bồ đề. Nhưng chúng sanh thọ mạng va nhơn đều vô sở hữu, nên nay tôi chẳng đến Bồ đề cũng chẳng thối chuyển". 

Sư Tử Dũng Mãnh nói:"Ngài có xu hướng chư Phật pháp chăng?" 

Văn Thù Sư Lợi nói: "Không. Thưa Ngài, tất cả các pháp đều xu hướng Phật pháp. Tại sao? Các pháp vô lậu vô hệ vô hình vô tướng là xu hướng Phật. Như xu hướng Phật các pháp cũng vậy. Thưa Ngài! Như lời Ngài hỏi xu hướng Phật pháp, nay tôi hỏi Ngài tùy ý Ngài đáp. Là sắc cầu Bồ đề ư? Là sắc bổn tánh cầu, là sắc như cầu, là sắc tự thể cầu, là sắc không cầu, là sắc ly cầu, là sắc pháp tánh cầu Bồ đề ư? Thưa Ngài! Là sắc được Bồ đề ư? Nhẫn đến là sắc pháp tánh được Bồ đề ư?". 

Sư Tử Dũng Mãnh đáp: "Không, thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. Sắc chẳng cầu Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Sắc chẳng được Bồ đề, nhẫn đến sắc pháp tánh chẳng được Bồ đề". 

Văn Thù Sư Lợi hỏi: "Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Thọ tưởng hành thức cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh cầu Bồ đề ư? Thức được bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh được Bồ đề ư?. 

Sư Tử Dũng Mãnh đáp: "Không. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Thọ tưởng hành thức chẳng cầu Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng cầu Bồ đề. Thức chẳng được Bồ đề nhẫn đến thức pháp tánh chẳng được Bồ đề". 

Văn Thù Sư Lợi hỏi: "Rời lìa ngũ uẩn có ngã, ngã sở chăng?". 

-     Không. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. 

-     Đúng vậy. Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Lại còn lấy pháp gì để cầu Bồ đề và được Bồ đề! 

-     Thưa Ngài Văn Thù Sư lợi! Lời Ngài nói đại chúng đều kính tin. Nay Ngài nói chẳng cầu Bồ đề chẳng được Bồ đề, hàng tân phát ý Bồ Tát nghe lời nầy sẽ sanh kinh sợ. 

- Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tất cả pháp không có kinh sợ. Trong thiệt tế cũng không kinh sợ. Đức Như Lai vì người không kinh sợ mà thuyết pháp. Nếu người kinh sợ thì họ sanh nhàm. Nếu sanh chán nhàm thì họ ly dục. Nếu ly dục thì họ giải thoát. Nếu giải thoát thì không Bồ đề. Nếu không Bồ đề thì là vô trụ. Nếu họ vô trụ thì là vô khứ. Nếu vô khứ thì là vô lai thì là vô nguyện cầu. Nếu không nguyện cầu thì chẳng thối chuyển. Nếu chẳng thối chuyển thì là thối chuyển. Thối chuyển những pháp gì? Đó là chấp ngã chúng sanh thọ mạng và nhơn, hoặc đoạn hoặc thường thủ tướng phân biệt thảy đều thối chuyển cả. Nếu kia thối chuyển thì là chẳng thối chuyển. Chẳng thối chuyển những pháp gì? Đó là không vô tướng vô nguyện thiệt tế và các Phật pháp đều chẳng thối chuyển.  Sao gọi là Phật pháp? Nghĩa là chẳng rời chẳng dính và không sở duyên, không nhập không xuất không có sở hành cũng không biểu thị, chỉ có giả danh, không, vô sanh, vô khứ vô lai, vô nhiễm vô tịnh, không trần, lìa trần, không ngã, không phân biệt, không hòa hiệp, không chấp thủ, bình đẳng không trái, đây là Phật pháp.  

Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Các Phật pháp ấy chẳng phải pháp chẳng phải phi pháp. Tại sao? Vì các Phật pháp không chỗ sanh vậy. Hàng tân phát ý Bồ Tát kia nghe lời nầy nếu sanh kinh sợ thì mau được Bồ đề. Nếu khởi tâm phân biệt mà nghĩ rằng nay chúng tôi được thành Bồ đề, tùy có phát tâm an trụ nơi hiện chứng mới được Bồ đề. Nếu chẳng phát tâm thì trọn chẳng được. Vì các phân biệt nầy đều chẳng sanh nên Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc thì vô phân biệt. Nếu vô phân biệt thì không hiện chứng. Tại sao? Vì sở nhơn hiện chứng bất khả đắc vậy. 

-     Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Hư không có thể được Bồ đề chăng? 

-     Không, thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. 

-     Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Đức Như Lai há chẳng nói tất cả pháp đồng hư không ư? 

-     Đúng vậy. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. 

-     Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Như hư không Bồ đề cũng vậy. Như Bồ đề hư không cũng vậy. Hư không với Bồ đề không hai không khác. Nếu Bồ Tát biết nghĩa bình đẳng nầy thì không có tri cũng không bất tri cũng không bất kiến". 

Lúc nói pháp ấy, có một vạn bốn ngàn Tỳ Kheo tận các lậu tâm được giải thoát, mười hai na do tha Tỳ Kheo xa trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh, chín vạn sáu ngàn chúng sanh phát tâm Bồ đề, năm vạn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn. 

Sư Tử Đũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát rằng: "Từ khi Ngài phát tâm Bồ Tát đến nay được bao nhiêu thời gian?". 

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: "Thôi đi, Ngài chớ sanh vọng niệm. Nếu có ai ở trong pháp vô sanh mà nói rằng tôi phát tâm Bồ đề, tôi làm hạnh Bồ đề là đại tà kiến. 

Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Tôi trọn chẳng thấy có tâm phát hướng Bồ đề. Do chẳng thấy tâm và Bồ đề nên không có phát". 

Sư Tử Dũng Mãnh hỏi: "Ngài Văn Thù Sư Lợi trọn chẳng thấy tâm, đó là cú nghĩa gì?". 

Văn Thù Sư Lợi nói: "Thưa Ngài! Là trọn chẳng thấy gọi là bình đẳng. 

-     Thế nào nói là bình đẳng? Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi. 

-     Thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Bình đẳng như vậy bởi các thứ tánh đều vô sở hữu. Các pháp ấy vì là một vị nên nói. Một vị nói ấy, đó là rời lìa vậy, không nhiễm không tịnh, chẳng đoạn chẳng thường, chẳng sanh chẳng diệt, không ngã không thọ, chẳng thủ chẳng xả. Thuyết pháp như vậy, chẳng quan niệm tôi nói cũng không phân biệt. Ở trong pháp bình đẳng ấy mà biết rõ tu hành thì gọi là bình đẳng. 

Lại nữa, thưa Ngài Sư Tử Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát nhập vào bình đẳng ấy thì trọn chẳng thấy có các thứ giới hoặc ít hoặc nhiều. Ở trong bình đẳng chẳng thấy bình đẳng, ở trong tương vi chẳng thấy tương vi. Tại sao? Ví nó bổn lai tánh thanh tịnh vậy". 

Bấy giờ Sư Tử Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chẳng chịu nói mình phát tâm bao lâu mà đại chúng đều muốn nghe". 

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Văn Thù Sư Lợi là bực trí nhẫn thậm thâm. Ở trong trí nhẫn thậm thâm ấy, Bồ đề và tâm đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên chẳng nói. Nhưng nầy thiện nam tử! Nay Phật sẽ nói Văn Thù Sư Lợi phát tâm lâu mau. Nầy thiện nam tử! Thuở quá khứ lâu xa quá bảy mươi vạn a tăng kỳ hằng sa kiếp, có Phật hiệu Lôi Âm Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác xuất thế tại phương Đông cách đây bảy mươi hai na do tha Phật độ, thế giới ấy tên Vô Sanh, Lôi Âm Như Lai thuyết pháp tại đó. Chúng Thanh Văn có tám mươi ức na do tha. Chúng Bồ Tát nhiều gấp bội. 

Bấy giờ có vua tên Phổ Phúc đủ bảy báu trị bốn thiên hạ với chánh pháp lý làm Chuyển Luân Vương. Trong thời gian tám vạn bốn ngàn năm, vua Phổ Phúc thường cung kính cúng dường Phật Lôi Âm với những y phục uống ăn cung điện đền đài đẹp tốt, cũng thường cung kính cúng dường chư Bồ Tát và chúng Thanh Văn. 

Thân tộc của vua, nội cung thể nữ vương tử đại thần chỉ chuyên lo cúng dường mà không làm gì khác. Dầu thời gian nhiều năm mà không ai mỏi nhọc. 

Sau thời gian ấy, nhà vua ở vắng một mình suy nghĩ: nay tôi đã nhóm họp căn lành quang đại mà còn chưa định chỗ hồi hướng, vì cầu Đế Thích, Phạm Vương, Chuyển Luân Vương chăng? Vì cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật chăng?

Lúc vua nghĩ như vậy rồi, trên không có chư Thiên bảo rằng: Đại Vương chớ phát khởi tâm kém hẹp ấy. Tại sao? Vì phước đức của vua đã họp được rất nhiều, vua nên phát tâm Vô thượng Bồ đề. 

Nghe lời khuyến cáo ấy, vua Phổ Phúc vui mừng nghĩ rằng nay tôi ở nơi đây quyết định chẳng lui, vì chư Thiên biết lòng tôi nên đến khuyến cáo. Nhà vua đem tám mươi ức na do tha trăm ngàn người đến chỗ Phật Lôi Âm, đảnh lễ chưn Phật, hữu nhiễu bảy vòng, cúi mình cung kính chắp tay nói kệ bạch Phật: 

"Nay tôi lễ Thế Tôn

 Mong vì tôi chỉ dạy 

Làm sao được thành tựu 

Đấng Thế Tôn tối thượng 

Chỗ nương nhờ cho đời 

Tôi đã rộng cúng dường 

Bởi tâm chẳng quyết định 

Chưa biết chỗ hồi hướng 

Tôi đã tu phước lớn 

Nên hồi hướng chỗ nào 

Là cầu ngôi Chuyển Luân

Đế Thích hay Phạm Vương 

Là cầu quả Thanh Văn 

Hay cầu Bích Chi Phật 

Lúc tôi nghĩ như vậy 

Trên không chư Thiên bảo 

Đại Vương chớ nên phát 

Tâm hồi hướng kém hẹp 

Nên vì các chúng sanh 

Mà phát nguyện rộng lớn 

Vì lợi ích thế gian 

Nên phát tâm Bồ đề 

Nay tôi thỉnh Thế Tôn 

Đấng Pháp Vương tự tại 

Mong nói các phương tiện 

Phát khởi tâm Bồ đề 

Phát tâm Bồ đề rồi 

Sẽ được như Thế Tôn 

Duy nguyện đức Thế Tôn 

Vì tôi tuyên nói đủ". 

Bấy giờ đức Lôi Âm Như Lai vì vua Phổ Phúc mà nói kệ rằng: 

"Đại Vương nên lắng nghe 

Phật sẽ thứ đệ nói 

Tất cả pháp nhơn duyên 

Tùy căn dục thật hành 

Như sở nguyện đã có  

Được quả báo như vậy 

Phật ở thuở quá khứ 

Cũng phát tâm Bồ đề 

Vì tất cả chúng sanh 

Nguyện làm lợi ích họ 

Như chỗ Phật phát nguyện 

Như xưa đã phát tâm 

Được bất thối Bồ đề 

Ý nguyện mau viên mãn 

Đại Vương phải kiên cố 

Tu tập các công hạnh 

Vua sẽ được vô thượng 

Phật Bồ đề quảng đại". 

Vua Phổ Phúc nghe Phật nói vui mừng hớn hở được chưa từng có, liền ở trước đại chúng đại sư tử hống mà nói kệ rằng: 

"Nay đối trước đại chúng 

Phát tâm đại Bồ đề 

Vì mỗi mỗi chúng sanh 

Thệ tận vị lai tế 

Thọ vô lượng sanh tử 

Mà làm lợi ích lớn 

Tu đủ hạnh Bồ Tát 

Cứu các chúng sanh khổ 

Từ nay nếu trái thệ

Phát khởi tâm tham dục 

Bỏn xẻn ganh oán hờn 

Là dối Phật mười phương 

Tôi từ ngày hôm nay 

Nhẫn đến thành Bồ đề 

Thường phải học chư Phật 

Tu hành các phạm hạnh 

Tùy thuận giới thanh tịnh 

Xa rời các lỗi lầm 

Tôi ở nơi Bồ đề 

Cũng chẳng nguyện mau chứng 

Sẽ tận vị lai tế 

Rộng lợi ích chúng sanh 

Nghiêm tịnh các Phật độ 

Vô lượng bất tư nghị 

Sẽ khiến danh hiệu tôi 

Nghe khắp mười phương cõi 

Nay tôi tự thọ ký

 Quyết định sẽ thành Phật 

Chí nguyện thắng thanh tịnh

Nơi đây vốn không nghi 

Tôi sẽ sạch ba nghiệp 

Chẳng cho sanh các ác 

Tôi dùng chơn thiệt nầy 

Thành Phật Lưỡng Túc Tôn  

Nếu tâm tôi chơn thiệt 

Đất sẽ động sáu cách 

Nếu lời tôi thành thiệt 

Không có chút hư vọng 

Sẽ khiến trong hư không 

Âm nhạc tự nhiên trỗi 

Nếu tôi không siểm khúc 

Cũng không tâm oán hận 

Do tâm chơn thiệt ấy 

Sẽ mưa hoa mạn đà". 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy