× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 15: VĂN THÙ SƯ LỢI THỌ KÝ THỨ MƯỜI LĂM 1

Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở thành Vương Xá núi Kỳ Xà Quật cùng chúng Tỳ Kheo một ngàn người, tám vạn bốn ngàn Bồ Tát, bực thượng thủ có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát. 

Lại có bảy mươi hai ức chư Thiên đều xu hướng Bồ Tát đạo, lại có Tứ Thiên Vương, Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn, Phạm Thiên Vương cùng chư Thiên quyến thuộc đều năm muôn hai ngàn cũng đều xu hướng Bồ Tát đạo. Có bốn A Tu La Vương cùng quyến thuộc vô lượng chúng. 

Có bảy vạn hai ngàn Đại Long Vương như Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Bà Lưu Na Long Vương, Ta Kiệt La Long Vương, Trì Đại Địa Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Cao Thắng Long Vương, Phục Ma Long Vương, Tối Long Vương, Nguyệt Thượng Long Vương v.v... làm bực thượng thủ. 

Lại có vô lượng Dạ Xoa Vương, như Kim Tỳ La Dạ Xoa Vương, A Tra Bạc Câu Dạ Xoa Vương, Tô Chi Lộ Ma Dạ Xoa Vương, Diệu Ý Dạ Xoa Vương, Diệu Huệ Dạ Xoa Vương, Diệu Tướng Dạ Xoa Vương, Phổ Sắc Dạ Xoa Vương, Bất Động Dạ Xoa Vương, Hữu Lực Dạ Xoa Vương, Đại Lực Dạ Xoa Vương v.v... làm bậc thượng thủ . 

Đại chúng như vậy cùng chung họp tại pháp hội. 

Bấy giờ trong thành Vương xá, Quốc Vương, đại thần và tứ chúng, cùng Thiên Long Bát Bộ, Nhơn Phi Nhơn đều mang y phục, đồ uống ăn, mùng mền, thuốc men, các vật cần dùng đến chỗ Như Lai mà cung kính cúng dường tôn trọng tán thán. 

Một ngày kia, sáng sớm đức Thế Tôn đắp y mang bát cùng chư Tỳ Kheo đại chúng hướng đến thành Vương Xá cung vua A Xà Thế. Thần lực của Phật phóng trăm ngàn tia sáng màu đẹp, trăm ngàn âm nhạc đồng thời hòa tấu, mưa những hoa đẹp như hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi lăng xăng rơi xuống. 

Do thần lực của đức Phật, nên chỗ nào đức Như Lai bước đến có hoa sen báu xuất hiện lớn như bánh xe, cọng bằng bạc, cánh bằng vàng, tua bằng tỳ lưu ly. Trong đài hoa có Hóa Bồ Tát ngồi kiết già. Chư Bồ Tát ấy cùng hoa sen báu bay vòng bảy lần quanh thành Vương Xá rồi nói kệ: 

"Đại Đạo Sư đáng kính cúng dường 

Lợi lạc chúng sanh khiến an ổn

Đủ oai đức lớn tâm tịch tĩnh 

Bực đời nương nhờ sẽ vào thành 

Ai muốn xa rời khổ sanh tử 

Hoặc thích du hí ở thiên cung 

Hoặc ai muốn phá các ma quân 

Phải gần đấng Pháp Vương diệu biện 

Phật khó nghe danh nay xuất hiện 

Trải trăm ngàn kiếp tu các hạnh 

Dùng tâm đại bi đi thế gian 

Đấng đáng kính ấy sẽ vào thành 

Từng hành vô lượng vô biên xả 

Nam nữ thê thất và ngôi vua 

Đầu mắt tai mũi và chưn tay 

Y phục uống ăn thảy đều xả 

Đã tu vô lượng đức bố thí 

Chứng được vô thượng Nhứt thiết trí 

Dùng trí điều tâm chắc công hạnh 

Tịnh giới không khuyết bực đại nhơn 

Thành tựu vô lượng đức nhẫn nhục 

Đấng tâm tịch tĩnh sẽ vào thành 

Câu chi kiếp hành đại tinh tấn

 Thương chúng sanh khổ quên mỏi mệt

 Đầy đủ vô lượng vô tỉ thiền

 Đấng phạm âm sẽ vào Vương Xá

 Trí huệ vô lượng không ai sánh 

Dường như hư không vô biên tế

 Tối thắng Thế Tôn giới đức đủ

 Tu hết các hạnh trí thanh tịnh

Phá tan quân ma hay cứu khổ

 Được ở ngôi cao yên bất động

 Pháp Vương vô thượng chuyển pháp luân

 Đấng Thích Sư Tử sẽ vào thành 

Nếu muốn thành Phật hiện ra đời 

Ba mươi hai tướng để trang nghiêm 

Phải phát vô thượng Bồ đề tâm 

Kính trọng cúng dường đức Như Lai 

Nếu muốn bỏ hẳn tham sân si 

Và cùng xa rời các phiền não 

Phải mau thân cận Thích Sư Tử 

Cung kính dâng lên đồ cúng dường 

Nếu muốn được thành Thích Phạm Vương 

Trăm ngàn quyến thuộc cùng tùy tùng 

Hằng thọ thiên cung các khoái lạc 

Phải mau thân cận Thích Sư Tử 

Muốn làm tứ châu Thánh Luân Vương 

Nguyện được thất bửu đều thành tựu 

Ngàn con Vương Tử đều dũng kiện 

Phải mau cúng dường đấng tối thắng 

Muốn làm Trưởng Giả chủ trong ấp 

Của cải thêm rộng nhiều vô lượng 

Quyến thuộc sắc tướng đều siêu luân 

Phải mau cúng dường Thích Sư Tử 

Đã được giải thoát và sẽ được 

Đều do nghe Phật pháp tịch tĩnh 

Đấng Thế Tôn khó được gặp gỡ 

Phải nghe câu vô ưu cam lộ". 

Trong thành Vương Xá, nam nữ già trẻ vô lượng chúng sanh nghe lời kệ ấy đều được khai ngộ, mọi người mang hương hoa phan lọng vô lượng âm nhạc đến chỗ đức Như Lai nhứt tâm chiêm ngưỡng hớn hở vui mừng cung kính cúng dường. 

Lúc đức Thế Tôn vào thành chưn đạp ngạch cổng thành, mặt đất toàn thành chấn động sáu cách, mưa những hoa đẹp và các âm nhạc. Chúng sanh trong thành, người đui được thấy, người điếc được nghe, người cuồng tỉnh trí, người trần truồng được mặc, người đói được ăn, người nghèo có của. Các chúng sanh ấy cũng chẳng bị não bức vì tham sân si kiêu mạn. Họ đều có lòng từ đối với nhau như cha con thân thuộc. Trong tiếng nhạc ấy nói kệ rằng: 

"Đại trượng phu thập lục

 Tối thắng nhơn Sư Tử

 Vào đô thành lợi người

 Chúng sanh được an vui

Mù đui được thấy sắc

 Điếc lác được nghe tiếng

 Điên cuồng tâm trí tỉnh

 Lõa lồ mặc y phục 

Đói khát được ăn uống

 Nghèo cùng được của cải

Lại ở trên hư không

 Trăm ngàn ức chư Thiên

 Đồng vì cúng dường Phật

Hòa tấu các âm nhạc

 Đấng thập lực oai đức

 Nay vào trong thành này 

Trong thành sáu thứ động

Đó là khắp động thảy

 Chúng sanh khỏi kinh sợ

 Đều được rất vui mừng 

Mà nay trong thành này

Tất cả các chúng sanh 

Chẳng bị tham sân si 

Tật đố nó não bức 

Vui mừng đầy thân tâm

 Lòng từ đối đãi nhau 

Nguyện Phật mau vào thành 

Làm an vui chúng sanh 

Lúc Thế Tôn vào thành 

Khắp phóng quang minh lớn 

Trời người đều tấu nhạc 

Vui thích nơi tâm ý 

Các sự lạ như vậy 

Có nhiều vô lượng thứ 

Trời người A Tu La 

Tất cả đều chiêm phụng". 

Lúc ấy thành Vương Xá có Bồ Tát trưởng giả tử tên Tồi Quá Cữu ở trong đường phố xa thấy đứcThế Tôn tướng hảo kỳ đặc, đoan nghiêm lặng sáng, các căn đứng lặng, người thấy không nhàm, an trụ xa ma tha điều phục tối thượng, điều phục các căn như giỏi điều tượng, chánh niệm chẳng loạn như ao vực trong, thân trang nghiêm với ba mươi hai tướng. Bồ Tát Tồi Quá Cữu thấy đức Phật sanh lòng tin thanh tịnh rất tôn trọng đến lễ chưn Phật đi nhiễu ba vòng rồi đứng qua một bên. 

Lại có vô lượng trăm ngàn chúng sanh đồng đến chỗ đức Phật. Vô số chư Thiên đứng trên không chắp tay cung kính tôn trọng đảnh lễ. 

Bồ Tát Tồi Quá Cữu bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu bao nhiêu pháp mau được Vô thượng Chánh giác tùy sở nguyện trang nghiêm thanh tịnh Phật độ".

 Vì muốn điều phục các chúng sanh, vì thương xót Tồi Quá Cữu, đức Thế Tôn đến chợ ở giữa đại chúng tuyên rằng: "Nầy thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu một pháp mau được Vô thượng Bồ đề tùy sở nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Gì là một pháp? Nầy thiện nam tử! Bồ Tát đối với tất cả chúng sanh vì thật hành đại bi nên do chí nguyện thù thắng mà phát Bồ đề tâm. 

Thế nào gọi là chí nguyện thù thắng mà phát Bồ đề tâm? Đó là người đã phát Bồ đề tâm rồi thì nhẫn đến việc ác rất nhỏ cũng trọn chẳng làm. Chẳng làm những gì? Đó là tham sân si cùng những cử chỉ cợt đùa của người tại gia thảy đều xa rời. Nếu là người đã xuất gia thì chẳng còn hi vọng danh lợi cung kính mà an trụ nơi pháp tu hành xuất gia. 

Thế nào là pháp tu hành xuất gia? Đó là như thiệt ngộ nhập tất cả các pháp.

 Những gì là tất cả pháp được ngộ nhập? Đó là uẩn, giới, xứ, hữu vi, vô vi.

 Thế nào là ngộ nhập? Đó là quan sát ngũ uẩn tịch diệt như huyễn không vô sở hữu. Lúc ngộ nhập như vậy, chẳng thấy ngộ nhập, vô giác vô tư, tất cả phân biệt thảy đều tịch diệt. Ở nơi các uẩn nếu ngộ nhập như vậy, tức là ngộ nhập tất cả pháp. Đây gọi là pháp tu hành xuất gia. 

Lúc Bồ Tát tu hành như vậy vẫn chẳng bỏ rời các chúng sanh. Tại sao? Như chỗ mình quan sát, Bồ Tát đem dạy lại chúng sanh, mà vẫn chẳng thấy có pháp và chúng sanh.

 Nầy thiện nam tử! Đây gọi là Bồ Tát thành tựu một pháp mau được Vô thượng Bồ đề, cũng làm cho Phật độ được đầy đủ viên mãn.

 Phật nói pháp ấy rồi, Bồ Tát Tồi Quá Cữu được vô sanh nhẫn, vui mừng hớn hở bay lên hư không cao bảy cây đa la. Trong đại chúng ấy, hai ngàn người phát Bồ đề tâm, một vạn bốn ngàn chư Thiên và Nhơn xa trần rời cấu ở trong các pháp được pháp nhãn thanh tịnh. 

Đức Thế Tôn mỉm cười, từ diện môn phóng các thứ tia sáng màu chiếu suốt vô lượng thế giới. Chiếu xong, tia sáng màu ấy trở lại nhiễu quanh Phật ba vòng rồi rót vào đảnh đức Phật.

 Tôn giả A Nan chỉnh y phục trịch y vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay cung kính ở trước Phật mà nói kệ rằng:

 "Đại Sư sức tự tại

 Đến bờ kia các pháp

 Thế Tôn Nhứt thiết trí

 Duyên gì hiện mỉm cười 

Đấng thập lực Thiện Thệ

 Hay làm những lợi ích

 Suốt thấu cả ba đời

 Duyên gì hiện mỉm cười

 Rõ tâm hành chúng sanh

 Thượng trung hạ sai biệt

 Biết ý tưởng vô ngại 

Mong Phật tuyên nói cho 

Ức do tha chư Thiên 

Đều đến đảnh lễ phật 

Mong Phật phát diệu âm 

Tế độ người khát ngưỡng 

Thắng định đến bờ kia 

Trí huệ cũng đến bờ 

Rời xa những lầm lẫn 

Duyên gì Phật mỉm cười 

Trăm ngàn chúng chư Thiên 

Vì chánh pháp đến họp 

Vô lượng các Tỳ Kheo 

Chắp tay đều nguyện nghe 

Hòa tấu các âm nhạc

Cúng dường đức Như Lai 

Lành thay Phật Thế Tôn  

Mong giải quyết chúng nghi". 

Đức Phật bảo Ngài A Nan: Nay ông có thấy Bồ Tát Tồi Quá Cữu bay lên hư không chăng? 

-     Bạch đức Thế Tôn! Có thấy. 

-     Nầy A Nan! Sau đây sáu vạn hai ngàn a tăng kỳ kiếp, Tồi Quá Cữu sẽ thành Phật tại thế giới nầy hiệu là Tịch Tĩnh Diều Phục Âm Thanh Như Lai đủ mười đức hiệu. Kiếp ấy tên Ly Nhiệt Não, quốc độ công đức trang nghiêm, đại chúng Thanh Văn Bồ Tát như đức Bất Động Như Lai tại thế giới Diệu Hỉ". 

Bấy giờ đức Thế Tôn cùng chư Tỳ Kheo thẳng đến cung vua A Xà Thế theo thứ tự trải tọa mà ngồi. 

Nhà vua đem các thứ uống ăn tự tay rót sớt cúng phật và Tăng, cũng dâng lên đức Phật y phục thượng diệu. 

Cúng dường xong, Vua ngồi lên ghế thấp trước Phật chắp tay bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Phẩn hận sân não từ đâu sanh? Ngu si vô trí từ đâu diệt?". 

Đức Phật nói: "Nầy Đại Vương! Phẫn hận sân não từ ngã sở sanh. Nếu chẳng biết được công đức và lỗi lầm cùng ngã và ngã sở thì gọi là vô trí. Nếu như thiệt biết ngã và ngã sở ấy thì tức là chẳng phải trí chẳng phải chẳng phải trí vậy. 

Đại Vương nên biết tất cả các hành: tới không từ đâu, đi không chỗ đến. Nếu không lai khứ thì không sanh diệt. Nếu không sanh diệt thì trí và vô trí ấy cũng đều không. Tại sao? Không có chút pháp nào mà có thể biết rõ sanh cùng chẳng phải sanh. Nếu rời năng tri thì là tri vậy". 

Vua A Xà Thế bạch Phật rằng: "Đức Như Lai rất hi hữu, khéo nói pháp như vậy. Nay tôi thà được nghe pháp mà chết, chớ chẳng mong luống sống". 

Đức Thế Tôn vì vua A Xà Thế mà khuyến phát khai hiểu làm cho vua vui mừng rồi, liền trở lại núi Kỳ Xà Quật, rửa chưn xong trải tọa ngồi nhập tam muội.  Vì pháp thí nên lúc xế trưa đức Phật từ tam muội dậy. Chư đại Bồ Tát và chúng Thanh Văn đều từ chánh định dậy. 

Bấy giờ Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát chung cùng bốn vạn hai ngàn Thiên Tử xu hướng Đại thừa. Di Lặc Bồ Tát cùng chung năm ngàn chúng Bồ Tát. Dũng Mãnh Lôi Âm Bồ Tát cùng chung năm trăm chúng Bồ Tát. Vua A Xà Thế cũng đem quyến thuộc cùng chung đến chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ chưn Phật lui ngồi một phía. 

Thành Vương Xá lại có vô lượng trăm ngàn chúng sanh đồng đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ đức Như Lai đảnh lễ chưn Phật lui ngồi một phía. 

Thừa oai thần của Phật, Ngài Xá Lợi Phất đứng dậy trịch vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính bạch đức Phật rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Trước đây đức Như Lai ở tại chợ trong thành Vương Xá đã vì Tồi Quá Cữu Bồ Tát mà nói tóm lược về đại Bồ Tát công đức trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Lành thay đức Thế Tôn! Nguyện đức Phật nói rộng về chư Bồ Tát thật hành hạnh bất thối chuyển Bồ đề, dứt các phiền não, nghiêm tịnh Phật độ, viên mãn đại nguyện, tu hành đầy đủ các Ba la mật, xa rời bực Thanh Văn Bích Chi Phật, noi đi theo dấu đi của Như Lai, hàng phục chúng ma chế ngự các ngoại đạo, đủ Nhứt thiết trí chuyển diệu pháp luân. Bồ Tát như vậy dầu chưa được Nhứt thiết chủng trí mà có thể quyết định lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Trong hội này, các thiện nam tử thiện nữ nhơn được nghe pháp ấy rồi sẽ vui mừng tu hành". 

Đức Thế Tôn tự nghĩ nay ta thuyết pháp chẳng phải chỉ vì đại chúng hiện tiền, ta phải thị hiện thần biến. 

Đức Thế Tôn phóng trăm ngàn ức tia sáng màu đẹp, mỗi tia sáng chiếu khắp trăm ngàn ức thế giới mười phương, tất cả nhựt nguyệt châu ma ni điện lửa Thiên Long đều bị chói luốt tất cả, cho đến tất cả núi rừng cây cối vì ánh sáng Phật chiếu suốt nên không hiện được bóng. 

Đức Thế Tôn lại thị hiện tiếng đặng hắng oai đức, tiếng ấy vang đến thế giới mười phương.

 Đông phương cách đây tám mươi bốn hằng hà sa Phật độ, có thế giới tên Phổ Quang Minh hiện có Phật hiệu Tập Cát Tường vương. Thế giới ấy không có danh từ Thanh Văn Bích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát đông đầy. Mỗi Bồ Tát đều có trăm ức bất thối Bồ Tát làm quyến thuộc. Trong chúng Bồ Tát ấy có một Bồ Tát tên Pháp Thượng. Tại sao lại tên là Pháp Thượng? Vì Bồ Tát ấy ở trước chúng hội nghe Phật thuyết pháp rồi bay lên hư không cao bảy cây đa la, tự ẩn thân mình mà nói pháp môn Bồ Tát tạng tên là Câu Đà la ni Kim Cương. Chúng hội ấy đều nghĩ rằng: Tất cả các pháp đều chỉ có tiếng gọi nó mà thôi. Tại sao? Vì như Pháp Thượng Bồ Tát chẳng hiện thân tướng chỉ nghe tiếng nói thôi. Tiếng ấy không thể tánh như thân tướng kia, đã rời thấy nghe thì tức là pháp tánh. Lúc nói pháp ấy, trong pháp hội có vô lượng đắc nhẫn Bồ Tát xa thấy Pháp Thượng Bồ Tát ở thế giới ấy. Lại thấy ở thế giới này, Phật phóng quang minh và tiếng đặng hắng của Phật vang khắp thế giới ấy. Chư Bồ Tát ấy đồng đến chỗ đức Phật Tập Cát Tường Vương đảnh lễ chưn Phật rồi đứng một phía. Pháp Thượng Bồ Tát bạch Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Có nhơn duyên gì mà hiện thoại ứng này?". 

Đức Phật Tập Cát Tường Vương nói: "Nầy Pháp Thượng! Phương Tây cách đây tám mươi bốn hằng hà sa Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, vì muốn triệu tập chư Bồ Tát mười phương nên từ tất cả lỗ lông phóng ra tia sáng ấy, cùng phát tiếng đặng hắng". 

- Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi muốn qua thế giới Ta Bà lễ kính cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng muốn nghe pháp.

 Đức Phật Tập Cát Tường Vương nói: Nên đi, nay đã phải lúc". 

Pháp Thượng Bồ Tát nghĩ rằng: Ta phải dùng thần biến gì để qua thế giới Ta Bà lễ kính Phật Thích Ca Mâu Ni? Nghĩ xong, liền nhập tam muội tên Nhứt thiết trang nghiêm thân. 

Do sức oai thần của tam muội ấy làm cho Tam thiên Đại Thiên thế giới nầy đầy những hoa đẹp chứa cao đến gối, trăm ngàn âm nhạc đồng trỗi, phan lọng báu nhiều thứ trang nghiêm, lại có hương thơm xông khắp mọi nơi như cung trời Tha Hóa Tự Tại. 

Hiện thần biến rồi, Pháp Thượng Bồ Tát cùng sáu mươi ba ức đại Bồ Tát, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, ẩn mất nơi thế giới Phổ Quang Minh mà hiện ra trong thế giới này đến lễ chưn Phật đi nhiễu bên hữu ba vòng rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện tòa sen mà ngồi. 

Phương Nam cách đây chín mươi sáu ức na do tha Phật độ có thế giới tên vi trần hiện có Phật hiệu Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn, có vô lượng đại Bồ Tát cung kính vây quanh. Có một Bồ Tát tên Bửu Chưởng. Tại sao tên là Bửu Chưởng? Bồ Tát ấy lúc ở các Phật độ giáo hóa chúng sanh, muốn dùng bàn tay hữu rờ khắp bao nhiêu thế giới thì liền làm được như ý muốn, từ tay ấy phát ra tiếng Phật, Pháp Tăng, tiếng thí, giới, nhẫn, tấn, thiền, huệ, từ, bi, hỉ, xả v. v... trăm ngàn ức na do tha tiếng pháp bửu như vậy. 

Bửu Chưởng Bồ Tát thấy ánh sáng và tiếng vang của Phật liền bạch hỏi nơi đức Phật Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Do duyên cớ gì mà có thoại ứng ấy?". 

Đức Phật nói: "Nầy Bửu Chưởng! Phương Bắc cách đây chín mươi sáu ức na do tha Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật Thích ca Mâu Ni, vì muốn diễn nói pháp môn Phật độ công đức trang nghiêm, họp chư Bồ Tát cho nghe pháp ấy để nhiếp thọ công đức nên hiện ra thoại ứng ấy. 

-     Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp. 

-     Nầy thiện nam tử! Chớ đi làm gì. Tại sao? Vì thế giới Ta Bà có đủ tam độc và là chỗ tụ họp của chúng sanh khổ não. 

- Bạch đức Thế Tôn! Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác thấy nghĩa lợi gì mà rời cõi thanh tịnh để hiện thân trong cõi trược uế? 

-     Nầy thiện nam tử! Đức Phật ấy thuở xưa xa phát thệ rằng: Nguyện tôi mau thành tựu đại bi thường ở trong chúng sanh tệ ác thành Phật chuyển pháp luân. 

-     Bạch đức Thế Tôn! Đức Thích Ca Như Lai thuở xưa phát nguyện đại bi khó phát ấy nay ở trong thế giới ác. Đức Thế Tôn ấy rất là khó gặp, nay tôi phải qua kính lễ cúng dường". 

Đức Sư Tử Dũng Mãnh Phấn Tấn Phật nói: "Nên đi, nay đã phải lúc. Nhưng nầy thiện nam tử! Ông đến cõi ấy phải khéo quan sát cẩn thận chớ để tổn thương. Tại sao? Vì ở đó chư Bồ Tát thiệt là khó gặp, mà các chúng sanh khác thì tâm hành hiểm độc dối trá khó điều phục được. 

- Bạch đức Thế Tôn! Cõi ấy dầu có giận hờn oán thù cũng chẳng tổn tôi được. Giả sử tất cả chúng sanh cùng tận vị lai giận hờn mắng nhiếc đến đánh đập tôi đều chịu được chẳng phiền". 

Đức Phật ấy nói với tất cả chư Bồ Tát: "Nầy các thiện nam tử! Các ông nếu được như Bửu Chưởng Bồ Tát thì có thể cùng đi". 

Nghe lời phán của Phật, liền có bảy vạn hai ngàn Bồ Tát đồng thanh bạch rằng: "Chúng tôi xin đi". 

Bửu Chưởng Bồ Tát nghĩ rằng nay tôi phải dùng thần biến gì để qua kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và có thể an lạc vô lượng chúng sanh. 

Nghĩ xong liền đưa bàn tay hữu che trùm cõi Tam thiên Đại Thiên nầy rồi mưa những đồ uống ăn y phục xe cộ vàng bạc lưu ly chơn châu kha bối san hô bích ngọc, tùy lòng hi vọng chúng sanh đều được đầy đủ. Người thích nghe pháp liền được nghe. Lại khiến vô lượng chúng sanh nghe pháp chứng được chơn thiệt. Cũng làm cho vô số chúng sanh bịnh khổ thọ vui vi diệu thù thắng. Hiện thần biến xong, Bửu Chưởng Bồ Tát cùng chư Bồ Tát trong khoảng một niệm, ẩn nơi kia mà hiện nơi đây, đến đảnh lễ chưn Phật nhiễu bên hữu ba vòng rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện đài sen mà ngồi. 

Phương Tây cách đây bảy mươi hai ức na do tha trăm ngàn Phật độ có thế giới tên Ma Ni Tạng hiện có Phật hiệu Ma Ni Tích Vương. Phật độ ấy thành tựu bằng lưu ly thanh tịnh, không có Thanh Văn và Bích Chi Phật, chỉ có chúng đại Bồ Tát thanh tịnh đi đứng đến lui nơi đất lưu ly đều thấy đức Như Lai hiện rõ ràng như trong gương sáng thấy đầu mặt mình, thấy Phật rồi thỉnh pháp, đức Phật ấy vì chư Bồ Tát nói đại nguyện thuở trước. Chư Bồ Tát ấy nghe pháp đắc nhẫn. 

Trong bạch hào ma ni bửu giữa chặng mày của Như Lai phóng ánh sáng lớn chiếu khắp cõi Ma Ni Tạng, tất cả ánh sáng khác đều bị chói lấp. Cõi ấy có Bồ Tát tên Thắng Trí Nguyện thấy ánh sáng ấy liền đến bạch đức Phật Ma Ni Tích Vương rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Có duyên cớ gì mà hiện thoại ứng ấy".

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Phương Đông cách đây bảy mươi hai ức na do tha trăm ngàn Phật độ có thế giới tên Ta Bà hiện có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni vì muốn triệu tập chư Bồ Tát mà hiện thoại ứng ấy". 

Bồ Tát Thắng Trí Nguyện bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ cúng dường Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp". 

Đức Ma Ni Tích Vương Như Lai nói: "Nên đi, nay đã phải lúc". 

Bồ Tát Thắng Trí Nguyện nghĩ rằng: Nay tôi phải hiện thần biến gì để qua kính lễ Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Nghĩ xong liền nhập tam muội làm cho trong cõi này sự khổ trong ba ác đạo đều tiêu diệt mà được vui vô thượng như Tỳ Kheo được chánh định. Bấy giờ tất cả chư Thiên, thế nhơn và hàng phi nhơn chẳng bị tham sân si mạn nghi ác kiến các phiền não bức nhiễu và đều phát lòng từ đối với nhau.

Hiện thần biến xong, Bồ Tát Thắng Trí Nguyện cùng bốn vạn hai ngàn Bồ Tát, trong khoảng một niệm ẩn nơi cõi kia mà hiện ra nơi cõi này, đến lễ chưn Phật rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hóa hiện đài sen mà ngồi.

Phương Bắc cách đây sáu vạn ba ngàn Phật độ có thế giới tên Thường Trang Nghiêm hiện có Phật hiệu Ta La Khởi Vương. Cõi ấy chưa hề có tên nữ nhơn, tất cả đều liên hoa hóa sanh ca sa theo thân. Lúc ấy Phật Ta La Khởi Vương vì chư Bồ Tát mà nói pháp môn Phật chủng tánh ấn. Sao gọi là Phật chủng tánh ấn? Đó là tối sơ phát tâm Bồ đề tức là đủ giới Bồ Tát, nhập Bồ Tát tạng được Đà la ni tâm chẳng tán loạn, chẳng rời nơi xả, chứng tánh không, chánh tu vô tướng, không chỗ nguyện cầu, tánh rời tham nhiễm, hay chứng nhập nơi uẩn giới xứ, phát khởi quan sát đều ưa cầu Phật huệ, chơn thiệt biết rõ tánh vô sanh, chứng tất cả pháp mà vô phân biệt, đầy đủ chánh kiến dứt các vọng niệm, đây gọi là Phật chủng tánh ấn. 

Trong đại chúng ấy có Bồ Tát tên Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương. Bồ Tát nầy có bổn nguyện thù thắng, chúng sanh nào thấy thân Ngài thì nhứt định sẽ được ba mươi hai tướng. Bồ Tát nầy thấy ánh sáng và nghe tiếng của Phật liền đến bạch đức Phật Ta La Khởi Vương rằng: "Do duyên cớ gì mà hiện thoại ứng ấy?". 

Đức Phật nói: "Nầy thiện nam tử! Phương Nam cách đây sáu vạn ba ngàn Phật độ có thế giới tên Ta Bà có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni vì muốn triệu tập chư Bồ Tát nên hiện điềm ấy.

-     Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao hiệu là thế giới Ta Bà? 

-     Nầy thiện nam tử! Cõi ấy kham nhẫn tham sân si và các khổ não nên gọi là thế giới Ta Bà.

 -     Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh cõi ấy đều có thể nhẫn thọ được các sự đánh đập mắng nhiếc não hại chăng? 

-     Nầy thiện nam tử! Chúng sanh cõi Ta Bà ấy ít có ai thành tựu được công đức nhẫn nhục, mà phiền nhiều tùy thuận tham sân si oán hận triền phược. 

-     Bạch đức Thế Tôn! Nếu như vậy thì thế giới ấy chẳng nên gọi là Ta Bà. 

-     Nầy thiện nam tử! Thế giới ấy cũng có thiện nam tử thiện nữ nhơn tu hành Bồ Tát thừa đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, thành tựu hạnh nhẫn nhục cứu hộ chúng sanh giỏi tự điều phục. Nếu bị gia hại những người nầy đều có thể nhẫn chịu không hề buông lung tham sân si. Do có những thiện trượng phu ấy nên gọi là thế giới Ta Bà. Lại trong cõi ấy cũng có chúng sanh đầy đủ những điều ác ít biết hối lỗi tâm họ thô dữ không tàm quí, chẳng kính Phật, chẳng trọng Pháp, chẳng mến Tăng nên thường đọa địa ngục ngạ quỉ súc sanh. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong các chúng sanh hạ liệt ấy đều nhẫn thọ được tất cả sự mạ nhục ghét hờn chê bai não loạn mắng chửi khủng bố, tâm Phật như đại địa chẳng ai lay động được, không chỗ trái nghịch được. Nếu được cúng dường tôn trọng, tâm Phật không cao hạ cũng không ghét thương. Vì cớ đó nên thế giới ấy tên là Ta Bà. 

-     Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi được lợi lành lớn là chẳng sanh vào trong chúng sanh hạ liệt tệ ác ấy. 

-     Nầy thiện nam tử! Chớ có nói như vậy. Tại sao? Phương Đông Bắc có thế giới tên Diệu Trang Nghiêm Nhẫn hiện có Phật hiệu Đại Tự Tại Vương. Chúng sanh cõi ấy thảy đều đầy đủ một bề an vui như Tỳ Kheo nhập diệt tận định. Nếu có người ở cõi ấy tu phạm hạnh trăm ngàn ức năm chẳng bằng ở cõi Ta Bà tu khoảng đàn chỉ. Đối với chúng sanh khởi tâm từ bi được công đức còn nhiều hơn nữa, huống là an trụ tâm thanh tịnh một ngày một đêm. 

-     Bạch đức Thế Tôn! Chúng tôi muốn qua thế giới Ta Bà kính lễ Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Bồ Tát cùng nghe pháp". 

Đức Phật Ta La Khởi Vương bảo Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương Bồ Tát rằng: "Nên đi, nay đã phải lúc". 

Bồ Tát ấy nghĩ rằng nay tôi phải hiện thần thông gì để qua lễ kính Thích Ca Mâu Ni Như Lai? Nghĩ xong liền hóa lọng báu che trùm cõi Đại Thiên nầy, có trăm ngàn muôn ức chuỗi ngọc phan báu rũ thòng giáp vòng, mưa các thứ hoa, tự nhiên trỗi trăm ngàn âm nhạc, lại khiến trong hội nầy hàng tứ chúng và Bát Bộ Nhơn Phi Nhơn tự thấy mình có đủ ba mươi hai tướng hiện ra trong lọng báu ấy. 

Hiện thần thông xong, Tướng Trang Nghiêm Tinh Tú Tụ Vương Bồ Tát cùng mười ức Bồ Tát trong khoảng một niệm ẩn nơi kia hiện ra nơi đây, đến lễ chưn Phật rồi theo hướng đã đến dùng nguyện lực hiện đài sen mà ngồi. 

Như vậy khắp mười phương có vô lượng Phật độ, trăm ngàn ức Bồ Tát thấy ánh sáng và nghe tiếng đặng hắng của Phật, đồng thưa bạch cùng đức Như Lai bên ấy rồi đồng qua thế giới nầy lễ chưn Phật hiện đài sen mà ngồi. 

Trong thế giới nầy, hàng Thích Phạm Hộ Thế đại oai đức chư Thiên Bát Bộ đều thấy ánh sáng và nghe tiếng Phật cũng đồng đến lễ chưn Phật rồi ngồi một phía. 

Bấy giờ đức Thế Tôn hiện thần biến làm cho vô lượng Bồ Tát ở mười phương đến đều thấy cõi nầy công đức trang nghiêm và thân lượng của Phật cũng đồng với Phật độ mình không chút sai khác. Nhưng chư Bồ Tát ấy vẫn biết rõ độ kia cõi nầy chẳng tạp loạn. 

Đức Di Lặc Bồ Tát đứng dậy chỉnh y trịch bày vai hữụ gối hữu chấm đất chắp tay hướng Phật mà nói kệ rằng: 

"Danh chấn mười phương trí vô lượng 

Phóng đại quang minh chiếu thế gian 

Tất cả chúng sanh cùng đo lường 

Chẳng lường được trí huệ Thế Tôn 

Mười phương vô lượng ức Bồ Tát 

Vì cầu pháp nên đồng đến họp 

Mà đều tin ưa các pháp môn 

Nguyện Phật diễn nói cho vui mừng 

Như Lai giới định và trí huệ 

Danh xưng nghe khắp mười phương cõi 

Thuyết pháp vô úy như sư tử 

Sáng khắp hư không như mặt nhựt 

Tất cả Trời Rồng và La Sát 

Và chư Tỳ Kheo , Tỳ Kheo Ni 

Chúng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di 

Chắp tay thích nghe đức Phật nói 

Quá khứ vị lai và hiện tại 

Thế Tôn nơi ấy đều biết rõ 

Dùng sức thắng giải cứu quần mê 

Mong giải quyết nghi cho hiểu rõ 

Thế nào trí hành của bồ Tát 

Nghiêm tịnh Phật độ cho sáng sạch 

Thế nào thệ nguyện mau thành mãn 

Nay thỉnh Như Lai tuyên nói cho 

Thế nào không tham giới không khuyết 

Hay nhẫn các sự mắng nhục đánh 

Tinh tấn tu hành không biếng lười 

Giải thoát vô lượng chúng sanh khổ 

Chuyên tâm ưa nhập môn tam muội 

Ở yên cung điện thiền thanh tịnh 

 Ở đời lợi ích mà không nhiễm 

Ví như hoa sen chẳng dính nước 

Thế nào trí huệ xuất thế gian 

Diễn nói pháp thậm thâm vi diệu 

Hàng phục tất cả các chúng ma 

Mau đầy đủ được xa ma tha". 

Đức Thế Tôn bảo Di Lặc Bồ Tát rằng: "Nay ông vì Phật mà sắp đặt pháp tọa. Phật sẽ thăng tòa nói chỗ tu hành theo trí nguyện thuở trước, hay khéo xuất sanh Phật độ công đức trang nghiêm xu hướng pháp môn chơn thiệt". 

Di Lặc Bồ Tát tự nghĩ rằng nay do ý nghĩa gì mà đức Thế Tôn truyền tôi sắp đặt pháp tọa mà chẳng bảo các ông A Nan, Mục kiền Liên v.v... Tại sao Phật lại bỏ rơi các Thanh Văn. Phải chăng đức Thế Tôn chỉ vì chư Bồ Tát mà thuyết pháp. Hoặc là hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật chẳng phải pháp khí đối với pháp môn ấy. Vì lẽ ấy mà đức Phật Thế Tôn truyền tôi sắp đặt pháp tọa. 

Di Lặc Bồ Tát liền dùng thần thông hóa hiện tòa sư tử báu cao bốn vạn do tuần giáp vòng trang nghiêm đẹp, trải tòa với thiên y mềm nhuyễn, từ bửu tòa ấy phát ra những tia sáng chiếu suốt Tam thiên Đại Thiên thế giới này. 

Đức Như Lai thăng tòa, cả thế giới nầy chấn động sáu cách. 

Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất rằng: "Bồ Tát thành tựu bốn pháp có thể làm cho sở nguyện đều được đầy đủ. Những gì là bốn? 

Một là phát trí nguyện thù thắng 

Hai là đối với chúng sanh phát tâm thương xót. 

Ba là phát khởi tinh tấn. 

Bốn là kính thờ bực thiện tri thức. 

Lại nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu một pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát phải thích học theo đức Bất Động Như Lai lúc làm Bồ Tát tu hành lập thệ nguyện rộng lớn rằng: Tôi sanh vào xứ nào, lúc sơ sanh nếu chẳng xuất gia thì là khi dối chư Phật mười phương. Chư Bồ Tát phải học theo như vậy. Hoặc có Phật xuất thế hay không có Phật xuất thế, tất cả đời sanh vào xứ nào đều quyết định xuất gia. Tại sao? Vì chỗ tối thắng của Bồ Tát là xuất gia vậy. 

Nầy Xá Lợi Phất! Người thích xuất gia hay nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười? 

Một là chẳng nhiễm lấy các dục lạc. 

Hai là ưa thích nơi a lan nhã. 

Ba là thật hành chỗ sở hành của Phật. 

Bốn là rời lìa việc làm của phàm phu 

Năm là chẳng nhiễm lấy vợ con và tài sản 

Sáu là rời lìa nhơn nghiệp ác đạo. 

Bảy là tu tập các pháp thiện đạo 

Tám là căn lành đời trước đều chẳng tổn giảm. 

Chín là luôn được chư Thiên khen tặng. 

Mười là tất cả quỉ thần đều cung kính thủ hộ. 

Nếu Bồ Tát thường thích xuất gia thì được mười thứ công đức như vậy. Vì thế nên Bồ Tát có trí cầu Bồ đề muốn độ chúng sanh thường phải xuất gia. Đây gọi là Bồ Tát thành tựu một pháp. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu hai pháp làm cho sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Đó là Bồ Tát chẳng thích Thanh Văn địa chẳng cầu Thanh Văn thừa, chẳng ưa thích nói pháp Thanh Văn thừa, chẳng gần gũi người Thanh Văn thừa, chẳng học giới Thanh Văn, chẳng thích nói pháp cùng tương ưng với Thanh Văn thừa, cũng chẳng khuyên người hành Thanh Văn thừa. Với Duyên Giác thừa, Bồ Tát chẳng ưa thích cũng như vậy. Bồ Tát chỉ vì Phật pháp khuyến phát chúng sanh thành tựu tối thượng Vô thượng Bồ đề. Đây gọi là hai pháp vậy. 

Nầy Xá Lợi Phất! Nếu có ai khuyên người xu nhập Phật thừa, Bồ Tát nầy có thể nhiếp lấy mười thứ công đức. Những gì là mười? 

Một là được quốc độ thanh tịnh không có Thanh Văn và Bích Chi Phật. 

Hai là được thuần một chúng Bồ Tát thanh tịnh. 

Ba là được chư Phật Thế Tôn hộ niệm. 

Bốn là thường được chư Phật xướng danh khen ngợi và thuyết pháp cho. 

Năm là chỗ phát tâm đều rộng lớn. 

Sáu là nếu sanh cõi trời thường làm Đế Thích hoặc Phạm Thiên Vương. 

Bảy là nếu sanh nhơn gian thì làm Chuyển luân Vương. 

Tám là thường thấy chư Phật. 

Chín là được chư thiên và người mến nhớ. 

Mười là nhiếp lấy vô lượng vô biên a tăng kỳ công đức. Tại sao? Nếu có người hay khiến bao nhiêu chúng sanh toàn cõi Đại Thiên

Tất cả đều được quả A La Hán, hoặc quả Duyên Giác. Nếu lại có người hay đặt một chúng sanh nơi Phật Bồ đề, thì công đức nầy nhiều hơn công đức kia. Tại sao? Vì chẳng phải do Thanh Văn Duyên Giác xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt. Thế gian nếu không Phật thì không có Thanh Văn Duyên Giác. Do Phật xuất hiện mà Phật chủng chẳng dứt và xuất sanh Thanh Văn Duyên Giác. Vì thế nên Bồ Tát làm cho người an trụ trong Phật thừa thì được mười thứ công đức như vậy và được quốc độ thanh tịnh. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu ba pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nhiếp thọ Phật độ công đức trang nghiêm. Những gì là ba? 

Một là tôn trọng ưa thích an trụ a lan nhã. 

Hai là không chỗ nhiễm trước mà làm pháp thí. 

Ba là bền vững an trụ luật nghi thanh tịnh. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát an trụ giới luật thì được mười thứ vô úy. Những gì là mười? 

Một là vào tụ lạc vô úy. 

Hai là ở trong chúng thuyết pháp vô úy. 

Ba là ẩm thực vô úy. 

Bốn là ra khỏi tụ lạc vô úy. 

Năm là vào chùa vô úy. 

Sáu là ở trong chúng ăn uống vô úy. 

Bảy là giáo thọ vô úy. 

Tám là thân cận Hòa thượng a xà lê vô úy. 

Chín là đối với quyến thuộc của mình, từ tâm dạy bảo vô úy. 

Mười là thọ dụng bốn sự y phục, uống ăn, mền mùng, thuốc men vô úy. 

Nầy Xá Lợi Phất! Người an trụ giới luật, có lời nói ra mọi người đều tin nhận. Đây là mười thứ vô úy của Bồ Tát. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thuyết pháp tâm không có chỗ nhiễm trước thì hay nhiếp thọ mười thứ công đức. Những gì là mười?  

Một là chẳng sanh ác dục. 

Hai là chẳng cầu người khác biết mình. 

Ba là chẳng phát khởi tâm cầu danh. 

Bốn là đối với nhà đàn việt tâm chẳng nhớ luyến. 

Năm là chẳng trông nom giữ gìn nhà đàn việt. 

Sáu là với tứ sự cúng dường rất hạ liệt cũng lấy làm vui đủ. 

Bảy là thuyết pháp khiến người tin nhận. 

Tám là được thiện thần ủng hộ. 

Chín là chẳng sanh tà giác. 

Mười là phát khởi tâm niệm Phật. 

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát tôn kính thích ở a lan nhã thì thành tựu mười thứ công đức lợi ích. Những gì là mười? 

Một là xa rời ngôn luận thế tục. 

Hai là chuyên quên nhàn tĩnh. 

Ba là tâm duyên định cảnh. 

Bốn là bỏ rơi những danh vụ. 

Năm là mến ưa chư Phật. 

Sáu là hằng thọ thiền định hỉ lạc. 

Bảy là lúc tu phạm hạnh không có chướng ngại. 

Tám là dùng ít công lực mà được tam muội. 

Chín là giáo pháp được thọ chưa hề quên mất. 

Mười là pháp nghĩa được nghe thảy đều biết rõ.

Lại nữa, nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thành tựu bốn pháp khiến sở nguyện chẳng thối lui nghiêm tịnh Phật độ. Những gì là bốn? 

Một là như lời nói hay làm được, như việc làm hay nói được. 

Hai là thường tự khiêm hạ. 

Ba là xa rời bỏn xẻn và ghen ghét. 

Bốn là thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát ấy như việc làm hay nói được có bốn điều lợi ích. Những gì là bốn? 

Một là trong miệng thường phát ra mùi thơm hoa sen xanh. 

Hai là ngữ nghiệp thanh tịnh, lời nói không sai lầm. 

Ba là tất cả thế gian đồng tin nhận. 

Bốn là nhiếp thọ âm thanh viên mãn của Phật. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát khiêm hạ có bốn điều lợi ích: 

Một là xa rời những thân súc sanh ác thú. 

Hai là thọ khoái lạc vi diệu. 

Ba là mưu ngầm giặc giữ đều chẳng hại được. 

Bốn là kham thọ trời và người cung kính lễ bái. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát rời bỏn xẻn ganh ghét có bốn điều lợi ích: 

Một là chẳng quên mất lòng bố thí. 

Hai là lúc đói khát thì làm nhà đại thí chủ. 

Ba là thấy người trì giới đến thì tiếp rước dẫn vào. 

Bốn là hoặc thọ người thí hay thí cho người không có ai ganh ghét. 

Nầy Xá Lợi Phất! Bồ Tát thấy người được lợi sanh lòng hoan hỉ có bốn điều lợi ích: 

Một là thường sanh tâm nầy: Tôi nhiếp chúng sanh phải cho họ lợi lạc, nay họ tự được lợi lạc nên tôi sanh lòng vui mừng. 

Hai là chỗ có tài vật, vua quan nước lửa cướp giặc oán thân đều chẳng xâm đoạt được. 

Ba là tùy sanh xứ nào của báu và các con thảy đều đầy đủ, vua chẳng còn đố kỵ huống là người khác. 

Bốn là của cải chứa dùng đều vô tận. 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy