× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 14: PHẬT THUYẾT NHẬP THAI TẠNG GIỚI THỨ MƯỜI BỐN 2

Nầy Nan Đà !  Thân này rất đáng chán sợ, nó thường có tám vạn hộ trùng ngày đêm cắn ăn, vì thế mà làm cho thân nóng khổ gầy ốm mỏi mệt đói khát. 

Lại còn tâm có nhiều khổ não lo rầu chết ngất, nhiều bịnh phát hiện, không lương y trị lành được. 

Nầy Nan Đà !  Người trí đâu có ở trong biển sanh tử ưa thích thân rất khổ này. 

Thân ấy lại còn bị các thần bịnh bắt giữ đó là thiên thần, long thần, bát bộ thần và các quỉ thần các ly mị bắt giữ.  Hoặc bị nhựt, nguyệt, tinh thần làm tổn.  Các quỉ thần ấy làm bịnh hoạn, bức não thân tâm khó nói hết. 

Nầy Nan Đà !  Có ai ở sanh tử thích vào thai mẹ để chịu nhiều đau khổ, sanh thành như vậy, tăng trưởng như vậy, uống máu sữa của mẹ và uống ăn vọng có ý tưởng là ngon lần lần trưởng thành, dầu cho được an lạc không bịnh, áo cơm dư thừa, sống trăm tuổi, trong đời ấy giấc ngủ gần phân nửa.  Ban đầu làm trẻ thơ, kế làm đồng tử, đến trưởng thành nhiều ưu bi hoạn nạn các bịnh hoạn đau nhức vô lượng trăm thứ khổ hành hạ thân ấy khó nói hết. 

Các khổ trong thân bức não, lúc khó chịu đựng thì chẳng còn muốn sống, có ý tìm chết.  Thân như vậy nhiều khổ, ít vui, dầu tạm sống còn tất rồi hoại diệt. 

Nầy Nan Đà !  Phàm sanh đều tử không thường còn.  Dầu cho uống thuốc tư dưỡng thọ mạng được kéo dài năm tuổi chung quy cũng chẳng khỏi tử thần giết chết đưa qua đất trống. 

Phải biết sanh sống không đáng vui ưa, tư lương đời sau phải siêng chứa họp, chớ có buông lung, chuyên tu phạm hạnh chẳng nên lười nhác.  Đối với các gia hành : lợi hành, pháp hành, công đức hành, thuần thiện hành phải thường thích tu tập.  Hằng quan sát chính mình, lòng ghi nhớ hai nghiệp thiện ác, chớ để sau này phải nói ăn năn, lúc ấy tất cả sở hữu mến ưa đều rơi lìa mà theo nghiệp thiện ác đi vào đời sau. 

Nầy Nan Đà !  Thọ mạng trăm năm có mười vị : 

Tối sơ là anh nhi, vị này nằm trong nôi.  Thứ hai gọi là đồng tử, làm trẻ nít chơi đùa.  Thứ ba gọi là thiếu niên thọ các dục lạc.  Thứ tư gọi là thiếu tráng dũng kiện đa lực.  Thứ năm gọi là thanh niên có trí đàm luận.  Thứ sáu gọi là thành tựu hay khéo tư lương giỏi làm kế sách.  Thứ bảy gọi là lần suy giỏi biết pháp thức.  Thứ tám gọi là hủ mại các việc suy nhược.  Thứ chín gọi là cực lão không còn làm gì được.  Thứ mười gọi là trăm tuổi, là đúng vị chết. 

Nầy Nan Đà !  Khái quát những đại vị lược nói có mười vị như vậy, tính theo bốn tháng làm một mùa thì trong trăm năm có ba trăm mùa, xuân hạ và đông đều có trăm mùa.  Một năm có mười hai tháng tổng số có một ngàn hai trăm tháng.  Lấy mỗi nửa tháng làm số thì có tất cả hai ngàn bốn trăm lần nửa tháng.  Theo ba mùa thì đều riêng có tám trăm lần nửa tháng.  Ngày đêm thì có ba vạn sáu ngàn.  Một ngày ăn hai bữa thì có bảy vạn hai ngàn bữa ăn.  Dầu có sự duyên chẳng ăn cũng ở trong số ấy.  Sự duyên chẳng ăn như là vì sân hận mà chẳng ăn, vì gặp khổ mà chẳng ăn, vì cầu chẳng được, vì ngủ, trì trai, chơi đùa mà chẳng ăn, vì sự vụ, vì bịnh mà chẳng ăn.  Ăn cùng chẳng ăn cộng lại có tổng số như trên, gồm lúc uống sữa mẹ.  Mạng người trăm tuổi Phật đã nói đủ.  Năm, tháng, ngày, đêm và số uống ăn các ông phải nhàm chán. 

Nầy Nan Đà !  Thân ấy sanh thành trưởng đại có nhiều bịnh hoạn, như là những bịnh đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, cổ, họng, ngực, bụng, tay, chưn, hủi, cùi, điên cuồng, sưng thủng, ho suyễn, bịnh phong, hoàng nhiệt, đàm ấm, ngược bịnh, gân cốt đau nhức.  Thân người có nhiều bịnh khổ như vậy.  Lại còn có trăm lẻ một bịnh phong, trăm lẻ một bịnh hoàng nhiệt, trăm lẻ một bịnh đàm ấm, trăm lẻ một bịnh tổng hợp, cộng là bốn trăm lẻ bốn bịnh từ nội thân phát sanh. 

Nầy Nan Đà !  Thân thể ung nhọt các bịnh họp thành không tạm thời dừng niệm niệm chẳng ở lại, thể chất nó là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là pháp bại hoặi gần nơi chết mất chẳng thể bảo tồn yêu cưng được. 

Nầy Nan Đà !  Các chúng sanh còn có sự thống khổ lúc sống, như là bị chặt tay, chơn, đầu, móc mắt, thẻo tai, lắt mũi, ngục tù giam cầm gông xiềng đánh đập khảo tra, đói khát khổ sở, rét nóng mưa tuyết, muỗi mòng, kiến, rận, gió bụi, ác thú, độc trùng nhiều thứ bức não khổ sở vô lượng vô biên khó kể hết được.  Mà các hữu tình thường ở giữa sự thống khổ như vậy lại đam mê vui thích.  Bao nhiêu dục lạc đều lấy khổ làm căn bổn, mà hữu tình chẳng biết rời bỏ lại đi tìm cầu, ngày đêm bị nung nấu thân tâm nhiễm não, bên trong cháy nóng không lúc nào nghỉ. 

Nầy Nan Đà !  Những hữu tình ấy đều là bỏ khổ tìm khổ, chỉ là khổ sanh, chỉ là khổ diệt, các hành nhơn duyên nối nhau phát khởi đức Như Lai biết rõ nên nói pháp hữu tình sanh tử.  Các hành đều vô thường chẳng phải cứu cánh chơn thiệt, là pháp biến hoại chẳng bảo thủ được, phải cầu tri túc phải rất chán sợ siêng cầu giải thoát. 

Nầy Nan Đà !  Các loài hữu tình trong thiện đạo chỗ sanh bất tịnh còn phải chịu nhiều thứ đau khổ kể nói khó hết, huống là các hữu tình địa ngục ngã quỉ bàng sanh ba ác đạo có biết bao là thống khổ không thể chịu được. 

Lại nầy Nan Đà !  Có bốn thứ người nhập thai mẹ : 

Một là hữu tình nhập trụ xuất thai đều chánh niệm. 

Hai là hữu tình nhập và trụ chánh niệm, xuất thai chẳng chánh niệm. 

Ba là hữu tình nhập thai chánh niệm, xuất thai chẳng chánh niệm. 

Bốn là hữu tình nhập trụ và xuất thai đều chẳng chánh niệm. 

Ai là người nhập trụ và xuất thai đều chánh niệm ?  Như có một loại hữu tình tánh ưa trì giới luôn tập hạnh lành thích làm thắng sự tạo phước, rất giỏi giữ gìn, chất trực chẳng buông lung có trí huệ lớn, lúc lâm chung không có gì phải ăn năn liền thọ sanh.  Đây hoặc là bậc Dự Lưu bảy đời, hoặc là bậc Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc là bậc Nhứt Lai, hoặc là bậc Nhứt Gian Bất Hoàn Hướng.  Người ấy do trước tu hạnh lành, lúc lâm chung dầu có khổ não mà tâm chẳng tán loạn chánh niện mà chết, lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp.  Phàm đã do nghiệp thọ sanh đều từ các nhân duyên mà được sanh khởi, thường ở cùng chỗ với các ma. 

Nầy Nan Đà !  Phải biết thân này luôn là hang ổ của tất cả bất tịnh, thể chất chẳng thường còn, là vật ngu si dụ gạt kẻ mê. Thân này lấy xương làm cơ quan, gân mạch liền nhau thông các lỗ huyệt, mỡ xương thịt tủy cùng ràng rịt nhau dùng da phủ lên để che sự dơ xấu đầy những bất tịnh, tóc lông răng móng phần vị sai biệt, vì chấp là ngã và ngã sở nên luôn bị bắt kéo đi chẳng được tự tại, thường luôn ra mũi dãi mồ hôi dơ dáy, nước vàng đàm nhớt, mỡ trỉn hư rã, thân mật gan phổi, đại trường tiểu trường phẩn tiểu đáng gớm, còn những loài trùng đầy dẫy các nơi, trên dưới các lỗ thường chảy hôi dơ, hai tạng sanh thục trùm bằng da mỏng nào khác hầm tiêu. 

Nầy Nan Đà !  Ông phải quan sát phàm lúc ăn nuốt, răng nhai, nước miếng ngấm nuốt vào cổ họng tủy óc hòa chung chảy tân dịch trong bụng, như chó gặm xương khô vọng cho là ngon, đồ ăn vào bụng ợ ngược trở lên lại nuốt trở vào. 

Nầy Nan Đà !  Thân nầy nguyên từ yết la lam, án bộ đà, bế thi v.v... các vật bất tịnh mà được sanh trưởng, anh nhi lưu chuyển nhẫn đến lão tử, luân hồi trói buộc như hố tối tăm, như hầm thúi dơ thường mặn lạt đắng cay ngọt chua các thực phẩm để tư dưỡng.  Lại lửa trong bụng mẹ đốt nấu thân căn, nồi phẩn bất tịnh thường bị nóng khổ.  Lúc người mẹ đi đứng nằm ngồi như bị trói năm chỗ, như bị lửa thui khó chịu nổi, không gì ví dụ. 

Nầy Nan Đà ! Thai ấy dầu bị khổ thiết ở trong hầm phân dơ, nhưng do lợi căn nên tâm chẳng toán loạn. 

Lại có một loại hữu tình bạc phước, thai ở bụng mẹ hoặc ngang hoặc ngược, do nghiệp lực đời trước, hoặc mẹ ăn uống lạnh nóng mặn cay chẳng khéo điều hòa, hoặc uống nước quá lượng, hoặc nhiều làm dâm dục, hoặc nhiều tật bịnh, hoặc hay sầu não, hoặc có lúc trợt té, hoặc bị đánh đập, do đó mà thân người mẹ tăng nóng, do thân mẹ nóng nên thai như bị thiêu đốt rất khổ sở, do khổ đau nên thai liền động chuyển, do động chhuyển nên hoặc thai nằm ngang nằm úp sanh ra chẳng được.  Có nữ nhơn giỏi dùng dầu tô thoa tay cho vào bụng mẹ nhẹ nhàng đưa thai về chỗ cũ.  Lúc tay họ chạm vào thai thì đứa con ấy rất là đau khổ, như trẻ nhỏ bị lóc da thịt rồi rắc tro lên đau khổ khó nói được. 

Dầu bị khổ thống ấy nhưng vì thượng lợi căn nên chánh niệm chẳng tán.  Thai ấy ở bụng mẹ chịu khổ như vậy. 

Lúc sắp sanh, đau khổ mà ra ngoài.  Do nghiệp phong ấy làm cho hai tay giao hiệp, gân cốt co rút rất khổ sở, thân thể xanh bầm như sưng thũng khó chạm đến được, đói khát bức ngặt, tim treo nhiệt não, do nghiệp lực nên có gió thổi xô ra.  Đã được ra ngoài bị hơi gió chạm đến đau như dao cắt như đụng lửa than, tay người hay khăn chiếu đụng đến đều rất đau đớn.  Dầu bị khổ nhưng do thượng lợi căn nên chánh niệm chẳng tán loạn biết nhập thai ở thai ra ngoài đều rất khổ.  Ai là người trí lại ưa thích nhập thai mẹ. 

Nầy Nan Đà !  Ai nhập và thụ thai có chánh niệm còn lúc xuất thai chẳng chánh niệm ? 

Có hạng hữu tình tánh ưa trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng sự tạo phước, tâm họ chất trực chẳng phóng dật có ít trí huệ, lúc lâm chung không hối tiếc.  Đây hoặc là bực Dự Lưu bảy đời, hoặc bực Gia Gia sáu đời đến hai đời, hoặc bực Nhứt Lai, hoặc bực Nhứt Gian Bất Hoàn Hướng.  Người này do trước đã tu hạnh lành, nên dầu lúc lâm chung các khổ bức ngặt mà tâm chẳng loạn lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ biết rõ các pháp, do nghiệp sanh ra thì đều từ các nhân duyên mà được sanh khởi, ở bụng mẹ và lúc ra ngoài đều chịu nhiều đau khổ, do trung lợi căn nên nhập thai và trụ thai có chánh niệm mà lúc xuất thai thì không.  Ai là người trí lại thích nhập thai mẹ. 

Nầy Nan Đà !  Ai nhập thai có chánh niệm mà trụ và xuất thai thi không ? 

Có hạng hữu tình tánh ưa trì giới tu tập phẩm lành thường làm thắng sự tạo phước, tâm họ chất trực chẳng buông lung có ít trí huệ, lúc lâm chung không hối tiếc.  Đây hoặc là bực Dự Lưu bảy đời, hoặc là bực Gia Gia sáu đến hai đời, hoặc là bực Nhứt Lai hoặc là bực Nhứt Gian Bất Hoàn Hướng.  Lúc lâm chung dầu nhiều đau khổ mà tâm chẳng tán loạn lại còn chánh niệm nhập vào thai mẹ, vì là bực hạ lợi căn nên lúc ở thai và lúc xuất thai không chánh niệm.  Ai là người trí lại thích vào thai mẹ.Nầy Nan Đà !  Ai nhập trụ và xuất thai đều không chánh niệm ? 

Có các hữu tình ưa phá giới chẳng tu thiện phẩm thường làm việc ác tạo nghiệp ác, tâm chẳng chất trực nhiều buông lung không trí huệ tham của bỏn xẻn tay luôn co rút chẳng thể mở giăng ban bố cho người, luôn hi vọng lòng chẳng điều thuận, kiến và hành điên đảo, lúc lâm chung hối hận các nghiệp bất thiện hiện ra, đương lúc chết rất khổ sở bức thiết, làm họ tán loạn chẳng tự nhớ biết tôi là ai từ đâu đến nay đi chỗ nào, đây gọi là ba thời kỳ nhập thai trụ thai và xuất thai đều không chánh niệm. 

Nầy Nan Đà !  Các hữu tình ấy sanh làm người dầu có vô lượng khổ não như vậy nhưng là chỗ tốt, trong vô lượng kiếp khó được thân người. 

Nếu sanh cõi trời thường sợ trụy lạc, có khổ ái biệt ly, lúc lâm chung, chư Thiên bảo rằng :  Nguyện ông được thác sanh thiện đạo, đó là trời người. 

Nhơn đạo khó được, xa rời các chỗ nạn chướng lại càng khó. 

Những gì là ác đạo ?  Đó là địa ngục đạo thường bị khổ thiết khó ví dụ được. Ngạ quỉ đạo tánh nhiều sân hận không tâm nhu nhuyến, dối gạt giết hại, lấy máu nhuộm tay không có tình thương hình dung xấu xí ai thấy cũng kinh sợ, dầu đến gần người nhưng vì đói khát nên luôn bị chướng ngại.  Bàng sanh đạo vô lượng vô biên, tạo việc vô nghĩa, việc vô phước, việc vô pháp, việc bất thiện, việc không thuần chất, ăn nuốt lẫn nhau kẻ mạnh lấn kẻ yếu.  Có các bàng sanh lúc sanh lúc sống lúc chết đều ở trong chỗ bất tịnh phẩn dơ hôi thúi tối tăm.  Hoặc có loại tạm ra ánh sáng như ong bướm muỗi ruồi kiến mối rận rệp.  Ngoài ra có vô lượng vô biên giống sanh trưởng thường tối tăm.  Do vì chúng nó ở đời trước là kẻ ngu si chẳng nghe kinh pháp, phóng túng nơi ngũ dục tạo nghiệp ác nên sanh trong các loài thọ lấy khổ ngu mê tăm tối. 

Nầy Nan Đà !  Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình nghe mùi phẩn dãi liền chạy đến lấy đó làm món ăn uống, đó là các giống heo dê chó gà chồn kên quạ ruồi nhặng bọ hung, chúng nó do nghiệp ác đời trước mà tự cảm lất báo ấy. 

Nầy Nan Đà !  Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình sanh và sống đều ở trong nước như thủy tộc cá tôm v.v..., chúng nó do nghiệp ác đời trước mà tự cảm lấy báo ấy. 

Nầy Nan Đà !  Lại có vô lượng vô biên bàng sanh hữu tình thường lấy cỏ cây và các thứ bất tịnh làm món ăn uống, như voi ngựa trâu bò đà lừa, chúng nó do nghiệp ác đời trước mà thọ báo ấy. 

Nầy Nan Đà !  Biển khổ sanh tử rất khổ rất khổ, lửa nóng đốt cháy, không một hữu tình nào là chẳng bị thiêu đốt.  Các hữu tình ấy do nơi ngọn lửa phừng mạnh nhãn nhĩ tỷ thiệt thân và ý tham cầu trần cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp. 

Thế nào gọi là ngọn lửa phừng mạnh ? 

Nầy Nan Đà ! Đó là những ngọn lửa tham sân si, những ngọn lửa sanh lão bịnh tử, những ngọn lửa ưu bi khổ não độc hại thường tự đốt cháy không một ai được khỏi. 

Nầy Nan Đà ! Người giải đãi thọ nhiều khổ sở, họ bị phiền não vây buộc mà tạo nghiệp ác, nên luân hồi chẳng dứt, sanh tử chẳng hết.  Người tinh tấn thọ nhiều an lạc, phát tâm dũng mãnh dứt trừ phiền não, tu tập pháp lành chẳng bỏ việc thiện không lúc nào thôi nghỉ. 

Các ông phải quan sát thân thể này da thịt gân xương máu mạch tủy não sẽ tan rã chẳng lâu, thường phải nhứt tâm chớ để giải đãi, người chưa chứng đắc phải siêng cầu chứng ngộ.  Các ông cần phải học tập như vậy. 

Nầt Nan Đà !  Phật chẳng cùng thế gian làm những tranh luận, nhưng thế gian đối với phật lại cưỡng làm tranh luận.  Tại sao ? 

Vì những người biết rõ các pháp chẳng tranh luận với ai, đã rời lìa ngã và ngã sở thì còn ai tranh luận với ai. 

Do vì thế gian không thấy hiểu mà vọng phát khởi chấp trước, nên Phật chứng Đẳng Chánh Giác tuyên lời rằng Phật ở nơi các pháp không gì chẳng biết rõ. 

Nầy Nan Đà !  Phật nói có sai dị chăng ? 

-         Bạch đức Thế Tôn !  Đức Phật nói không sai dị. 

-         Nầy Nan Đà !  Lành thay, tốt thay !  Như Lai nói quyết không sai dị.  Như Lai là đấng chơn ngữ, đấng thiệt ngữ, đấng như ngữ, đấng bất dị ngữ, là người muốn tất cả thế gian mãi mãi an vui được thắng lợi lớn, là người biết đạo, là người hiểu đạo, người thuyết đạo, người khai đạo, là Đại đạo sư, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. 

Người thế gian vô tri vô tín, thường làm nô bộc cho các căn, chỉ thấy trong bàn tay mà chẳng nhìn lợi lớn chơn thiệt, việc dễ chẳng tu, việc khó lại luôn làm. 

Nầy Nan Đà !  Thôi đi.  Cảnh giới trí huệ như đây, nay ông phải dùng nhục nhãn để quan sát những thứ ấy được.  Biết những thứ được thấy đều là hư vọng thì gọi là giải thoát. 

Nầy Nan Đà !  Ông chớ tin Phật, chớ theo chỗ muốn của Phật, chớ y lời của Phật, chớ xem tướng Phật, chớ theo chỗ thấy hiểu của Sa Môn, chớ phát sanh cung kính đối với Sa Môn, chớ nói Sa Môn Kiều Đàm là đại sư của tôi, mà ông chỉ nên ở nơi pháp được tự chứng của Phật riêng tại chỗ tịch tĩnh suy lường quan sát thường siêng tu tập, tùy theo pháp đã được dụng tâm quan sát, liền theo pháp ấy quán tưởng cho thành tựu, chánh niệm ở yên nơi đó, tụ làm cồn bãi, tụ làm nương về, pháp là cồn bãi là chỗ nương về, không có cồn bãi nào khác, không có chỗ về nào khác. 

Nầy Nan Đà !  Thế nào là Tỳ Kheo tự mình làm cồn bãi chỗ về ? 

Nầy Nan Đà !  Nếu có Tỳ Kheo theo nội thân của mình quan sát siêng gắng nhiếp niệm được chánh hiểu rõ, đối với thế gian có bao nhiêu giận não thường suy xét điều phục, đây gọi là theo nội thân quan sát là khổ.  Nếu quan sát ngoại thân và nội ngoại thân cũng như vậy. 

Nầy Nan Đà !  Ông ở nơi tập pháp quan sát nơi thân rồi an trụ nơi đó, quan sát nơi diệt rồi an trụ nơi đó.  Lại ở nơi tập và diệt hai pháp quan sát nơi thân rồi lại an trụ nơi đó.  Tức ở thân nầy hay thành chánh niệm.  Hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, hoặc không y tựa mà an trụ, đối với thế gian nầy biết là không lấy được.  Đây gọi là Tỳ Kheo ở nơi tự nội thân theo nội thân quan sát mà an trụ nơi đó, quan sát ngoại thân và nội ngoại thân cũng vậy. 

Kế quan sát nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ mà an trụ nơi đó.  Kế quan sát nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm mà an trụ nơi đó.  Kế quan sát nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp rồi an trụ nơi đó.  Siêng gắng nhiếp niệm được chánh hiểu rõ, đối với thế gian có bao nhiêu giận não đều thường suy xét điều phục, quan sát tập pháp rồi an trụ, quan sát diệt pháp rồi an trụ, lại quan sát tập diệt hai pháp rồi an trụ. Tức ở nơi thân nầy hay thành chánh niệm, hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, với các thế gian nầy biết không lấy được. 

Đây gọi là Tỳ Kheo tự làm cồn bãi chỗ về nương, pháp làm cồn bãi chỗ về nương, không có cồn bãi chỗ về nương nào khác. 

Nầy Nan Đà !  Nếu có trượng phu bẩm tánh chất trực không siểm cuống, lúc sáng sớm đến chỗ Phật, Phật đem pháp lành tùy cơ chỉ dạy.  Người ấy đến chiều tự trình bày sở đắc.  Hoặc chiều chỉ dạy đến sáng trình bầy sở đắc. 

Nầy Nan Đà ! Pháp lành của Phật hiện được chứng ngộ hay trừ nhiệt não khéo ứng thời cơ dễ làm phương tiện, là pháp tự giác khéo hay che chở.  Người đối trước Phật thân nghe Phật nói pháp thuận với tịch diệt Niết bàn hay đến Bồ đề Chánh giác, đây là chỗ biết của Phật.  Vì thế nên nay ông thấy các pháp tự lợi , lợi tha hoặc tự tha đều lợi phải thường tu học.  Với pháp xuất gia nên cẩn thận thật hành chớ để luống qua.  Như vậy sẽ được thắng quả vô vi an lạc đáng được thọ cúng dường, làm cho các thí chủ được phước lợi lớn được quả báo rất tốt tôn quí quảng đại.  Các ông phải nên tu học như vậy.

 Lại nầy Nan Đà !  Chưa có một sắc pháp nào là đáng được mến ưa và có thể về sau chẳng biến hoại.  Chưa có sắc pháp nào chẳng phát khởi ưu bi chẳng sanh phiền não. 

Nầy Nan Đà !  Sắc ấy là thường hay vô thường ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Thể nó là vô thường. 

- Nầy Nan Đà !  Đã là vô thường thì nó là khổ chăng ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Là khổ. 

-         Này Nan Đà !  Đã là vô thường là khổ tức là pháp biến hoại.  Các đệ tử đa văn của Phật có cho sắc là ngã, ngã có sắc, sắc thuộc ngã, ngã ở tại trong sắc chăng ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Không cho như vậy. 

-         Nầy Nan Đà !  Thọ tưởng hành và thức là thường hay vô thường ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Là vô thường. 

-         Nầy Nan Đà !  Đã là vô thường thì thọ tưởng hành thức có là khổ chăng ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Đều là khổ. 

-         Nầy Nan Đà !  Đã là vô thường khổ tức là pháp biến hoại.  Các đệ tử đa văn của Phật có cho rằng thọ v. v... là ngã, ngã có thọ v.v... , thọ v.v... thuộc ngã, ngã ở trong thọ v.v... chăng ? 

-         Bạch Thế Tôn !  Đều không cho như vậy. 

-         Nầy Nan Đà !  Do đó mà biết rằng phàm là sắc, hoặc quá khứ. Hoặc vị lai, hoặc hiện tại, hoặc nội, hoặc ngoại, hoặc thô, hoặc tế, hoặc thắng, hoặc liệt, hoặc cận, hoặc viễn, tất cả sắc đều chẳng phải ngã, ngã chẳng có sắc, sắc chẳng thuộc ngã, ngã chẳng ở trong sắc.  Phải dùng chánh niệm chánh huệ mà quan sát vậy.  Với thọ tưởng hành và thức cũng dùng chánh niệm chánh huệ mà quan sát như vậy.  Nếu đệ tử đa văn của Phật quan sát như vậy, chán sợ nơi sắc, chán sợ thọ tưởng hành thức.  Đã chán sợ thì không nhiễm trước liền được giải thoát.  Đã giải thoát rồi tự biết mình giải thoát mà tuyên lời rằng sự sanh của tôi đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong chẳng còn thọ thân sau". 

Phật nói pháp ấy xong, Cụ thọ Nan Đà xa trần rời cấu được pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm Tỳ Kheo ở nơi hữu lậu tâm được giải thoát. 

Đức Thế Tôn lại nói kệ bảo Nan Đà rằng : 

"Nầy người không chánh định 

Thì không trí thanh tịnh 

Chẳng dứt được phiền não 

Nên ông phải siêng tu

 Ông thường tu diệu quán

 Biết các uẩn sanh diệt  

Thanh tịnh nếu viên mãn

 Chư Thiên đều vui đẹp

 Cùng bạn bè giao hoan

 Qua lại ái niệm nhau

Tham danh say mê lợi

 Nan Đà !  Ông phải bỏ

 Chớ thân cận tại gia

 Với những người xuất gia

 Nhớ vượt biển sanh tử

 Cùng tận bờ mé khổ

 Trước từ yết la lam

 Kế thành bóng thịt nhão

 Bóng thịt thành bế thi

 Bế thi thành kiện nam

Kiện nam tạm chuyển biến

 Sanh đầu và tứ chi

 Các xương họp thành thân

 Đều từ nghiệp mà có 

Xương đầu hiệp chín miếng 

Hàm có hai xương liền 

Răng có ba mươi hai 

Chưn răng cũng như vậy 

Lỗ tai và xương cổ 

Xương nướu và sống mũi 

Ngực hông cùng yết hầu 

Tổng có hai mươi xương 

Khuôn mắt có bốn xương 

Hai vai cũng hai cặp 

Hai cánh cùng đầu ngón 

Tổng có năm mươi xương 

Sau cổ có tám xương 

Xương sống ba mươi hai 

Tất cả có căn bổn 

Số ấy cũng bốn phần 

Xương sườn bên hông hữu 

Liền nhau có mười ba 

Hông tả liền nhau sanh 

Cũng có mười ba xương 

Những cốt tỏa như vậy 

Ba ba liền nối nhau 

Hai hai móc kéo nhau 

Ngoài ra chẳng nối nhau 

Hai đùi chưn tả hữu 

Hiệp có năm mươi xương 

Tổng ba trăm mười sáu 

Chống đứng cho thân thịt 

Lóng xương móc nối nhau 

Hiệp thành xương chúng sanh 

Đấng thiệt ngữ ghi nói 

Chỗ biết của Chánh giác 

Từ chưn đến nơi đầu 

Hôi dơ chẳng bền chắc 

Do đây cọng thành thân 

Mỏng manh như nhà cỏ 

Không ngọn chỉ xương đứng 

Máu thịt tô đắp khắp 

Đồng người gỗ cơ quan 

Cũng như tượng huyễn hóa 

Nên quan sát thân này

 Gân mạch lại vấn quanh 

Da ướt gói bọc nhau 

Chín chỗ có miệng ghẻ 

Khắp nơi thường chảy tràn 

Phẩn đái các bất tịnh 

Ví như kho cùng thúng 

Đựng những lúc bắp thảy 

Thân nầy cũng như vậy 

Hôi dơ đầy trong ấy 

Vận động cơ quan xương 

Mỏng manh chẳng bền chắc 

Kẻ ngu thường ưa thích 

Người trí không nhiễm trước 

Thường chảy mũi dãi dơ 

Mủ máu luôn đầy dẫy 

Mỡ vàng lộn nước sữa 

Óc đầy trong sọ đầu 

Ngực ức đàm ấm chảy 

Trong có tạng sanh thục 

Mỡ nhớt và da màn 

Năm tạng những ruột dạ 

Các thứ hôi rã ấy 

Những dơ dáy đồng ở  

Thân tội sâu đáng sợ 

Đây tức là oan gia 

Người vô thức đam mê 

Ngu si thường bảo hộ 

Thân hôi dơ như vậy 

Dường như thành quách mục 

Ngày đêm bị phiền não

 Trôi dời không tạm dừng 

Thân : thành, xương : tường vách 

Máu thịt làm bùn tô 

Vẽ màu tham sân si

 Theo chỗ mà trang sức 

Đáng gớm thành thân xương

 Máu thịt liên hiệp nhau

 Thường bị ác tri thức

 Khổ trong ngoài đốt nhau

 Nan Đà !  Ông phải biết

 Những lời Phật đã nói

 Ngày đêm thường nhiếp niệm

 Chớ nghĩ đến cảnh dục

 Nếu người muốn xa lìa

 Thường quan sát như vậy

 Siêng cầu chỗ giải thoát

 Mau khỏi biển sanh tử". 

Đức Thế Tôn nói kinh Nhập Thai nầy rồi, Cụ thọ Nan Đà và năm trăm Tỳ Kheo đều rất vui mừng tín thọ phụng hành. 

Tỳ Kheo Nan Đà vượt khỏi biển sanh tử hiểm nạn đến Niết bàn cứu cánh an ổn được quả A La Hán nói kệ tự mừng rằng : 

"Kính tâm dưng nước tắm 

Nước sạch và hương thoa 

Cùng tu những ruộng phước 

Được báo thù thắng nầy". 

Đại chúng nghe lời kệ ấy đều nghi ngờ, vì muốn hết nghi nên bạch đức Phật rằng :  "Tỳ Kheo Nan Đà trước tạo nghiệp gì mà được thân màu hoàng kim đủ ba mươi tướng trang nghiêm, trông với thân Thế Tôn chỉ kém có bốn ngón.  Với cảnh dục lạc, ông ấy rất nhiễm trước.  Nhờ đức Phật xót thương cưỡng vớt ra khỏi biển sanh tử đặt ông ấy nơi cứu cánh Niết bàn.  Mong đức Thế Tôn giải thích cho". 

Đức Phật bảo đại chúng rằng :  "Tỳ Kheo Nan Đà đời trước tạo nghiệp nay quả báo thành thục đều được phát hiện". 

Đức Phật liền nói kệ rằng : 

"Giả sử trải trăm kiếp

 Nghiệp đã tạo chẳng mất

 Lúc nhơn duyên hội ngộ

 Lại tự thọ quả báo. 

Các ông nên lắng nghe đây.  Thuở quá khứ chín mươi mốt kiếp, người thọ tám vạn tuổi, có Phật xuất thế hiệu là Tỳ Bà Thi Như lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, cùng sáu vạn hai ngàn Tỳ Kheo du hành nhơn gian đến thành Thân Huệ chỗ nhà vua đóng đô.  Đức Phật ấy đến ở tại rừng Thân Huệ.  Đức Phật ấy có em trai khác mẹ rất say đắm cảnh dục lạc.  Đức Tỳ Bà Thi Phật khuyên em xuất gia ra khỏi biển sanh tử phương tiện đặt tại cứu cánh Niết bàn. 

Nhà vua lúc bấy giờ tên là Hữu Thân dùng pháp trị nước, nhơn gian đông giầu no đủ an ổn.  Vua có em trai khác mẹ rất say mê dâm nhiễm.  Vua nghe đức Phật và đại chúng đến ở rừng Thân Huệ, bèn đem các Vương Tử thị thần cung nữ nhơn dân đến chỗ đức Phật, đảnh lễ chưn Phật rồi ngồi một phía. 

Đức Tỳ Bà Thi Phật vì vua và đại chúng tuyên dương diệu pháp chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng được sự hiểu biết thù thắng. 

Em trai vua say mê sắc dục chẳng chịu ra khỏi cửa.  Các con đại thần và các tri hữu đến bảo rằng : Thiện hữu có biết chăng ?  Nay nhà Vua và Vương Tử cùng nội cung đại thần nhơn chúng đến chỗ đức Tỳ Bà Thi Phật lễ kính nghe pháp được sự hiểu biết thù thắng.  Thân người khó được, Ngài đã được, sao nay Ngài vẫn say đắm dâm dục chẳng chịu ra khỏi cửa. Nghe các bạn trách, em vua hổ thẹn, miễn cưỡng đi theo, Tỳ Kheo em trai đức Phật gặp hỏi, họ thuật cớ sự. Tỳ kheo ấy nói tôi là em trai đức Phật, ngày trước ở nhà say mê cảnh dục, may được đức Phật cưỡng dắt xuất gia an ổn đến cứu cánh Niết bàn.  Nay còn có hạng người ngu si giống như tôi.  Các Ngài từ bi cưỡng dắt đồng đi thiệt là việc lành rất lớn.  Đến chỗ đức Phật tất sẽ tin sâu. 

Nhóm người ấy đến chỗ đức Phật.  Đức Tỳ Bà Thi Như Lai quan sát các căn tánh dục mà vì họ thuyết pháp.  Em vua nghe pháp rồi phát khởi lòng tin sâu lễ Phật bạch rằng : Mong Thế Tôn cùng Thánh chúng sáng mai đến nhà tôi vào ôn thất tắm gội.  Đức Phật yên lặng nhận.

Em trai vua biết đức Phật đã nhận lời, liền lễ chưn Phật, về đến chỗ vua thưa rằng : tôi đến chỗ Phật nghe pháp sanh lòng tin, với cảnh dâm dục sanh lòng chán lìa.  Tôi phụng thỉnh Phật và Tăng sáng mai đến nhà tôi vào ôn thất tắm gội.  Đức Như Lai Đại Sư đã từ bi nhận lời.  Đức Phật là chỗ mà trời và người đều phải cúng dường, Đại Vương nên rưới quét đường sá, trang nghiêm thành quách. 

Nhà vua nghĩ rằng em trai ta mê say sắc dục khó khuyên can, nay Phật điều phục được thiệt là hi hữu.  Đức Phật vào thành ta nên nghiêm sức.  Vua đáp rằng rất tốt.  Em về lo sắm sửa các vật cần thiết để tắm gội.  Ta sẽ tùy sức trang nghiêm thành quách.  Em vua rất vui mừng tạ từ về nhà. 

Nhà vua bảo các quan nên truyền lịnh phổ cáo nhơn dân sáng ngày Thế Tôn sẽ vào thành, nhơn dân đều nên tùy sức trang nghiêm thành quách rưới quét đường sá, cầm các hương hoa đón rước đức Đại Sư. 

Nhơn dân nghe lời phổ cáo liền rưới quét trang nghiêm khắp nơi rước nước hoa, đốt hương thơm, treo phan lọng rải hoa cúng dường như vườn hoan hỉ của Thiên Đế Thích.  Em trai vua thì sắm sửa nước nóng thơm và dầu thơm, trang nghiêm nhà tắm đặt bày ghế ngồi. 

Sáng ngày, đức Tỳ Bà Thi Phật sắp vào đến thành.  Nhà vua mang đại chúng ra tiếp nghinh lễ chưn Phật rồi theo sau Phật vào thành. 

Em trai vua tiếp đức Thế Tôn vào ôn thất dưng nước thơm để Phật tắm rửa thấy thân Phật như màu hoàng kim ba mươi hai tướng tốt tám mươi tùy hình hảo toàn thân xinh đẹp, liền vui mừng sanh lòng tin sâu.  Đức Phật tắm xong mặc y phục rồi, em trai vua đảnh lễ chưn Phật phát nguyện rằng : Nay tôi may mắn gặp phước điền tối thượng dâng lễ mọn cúng dường, nguyện tôi đời sau thân màu hoàng kim như đức Phật.  Như em trai Phật đam mê cảnh dục, được Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ an trú cứu cánh Niết bàn.  Nguyện tôi đời sau được làm em Phật, được thân màu hoàng kim, lúc tôi đam mê cảnh dục được Phật cưỡng dắt ra khỏi sông sâu ái nhiễm đến chỗ Niết bàn an ổn. 

Nầy các Tỳ Kheo !  Em trai vua Thân Huệ đam mê sắc dục chíng là Nan Đà hiện nay, do ngày trước tạo nhơn lành cúng dường Phật Tỳ Bà Thi và phát thiện nguyện nên nay được thân màu hoàng kim vàđược Phật cưỡng dắt ra khỏi đến chỗ an ổn cứu cánh Niết bàn". 

Chư Tỳ Kheo còn có chỗ nghi nên bạch đức Phật do tạo nghiệp gì mà Tỳ Kheo Nan Đà được ba mươi hai tướng đại trượng phu ?

 Đức Phật bảo chư Tỳ Kheo :  "Ông ấy tạo nghiệp rộng nói như trước.  Về quá khứ trong tụ lạc có một Trưởng giả giàu lớn nhiều của đồ dùng không thiếu.  Có một khu vườn bông trái sum suê, suối chảy ao tắm rừng cây sầm uất, có thể làm nơi ẩn tu hành cho người xuất gia. 

Bấy giờ có vị Độc Giác xuất thế thương xót chúng sanh mà ở nơi nhàn tĩnh.  Thế gian không Phật chỉ có phước điền ấy. 

Có một Độc Giác Tôn Giả du hành nhơn gian đến tụ lạc ấy quan sát khắp nơi đến vườn trên.  Người giữ vườn thấy Tôn Giả liền thỉnh ngơi nghỉ tại vườn.  Giữa đêm Tôn Giả nhập hỏa quang tam muội.  Người giữ vườn thấy vậy liền về báo với Trưởng giả về sự thù thắng hi hữu đáng vui mừng ấy.  Trưởng giả nghe báo vội đến vườn lễ chưn Tôn Giả bạch rằng :  Ngài vì khất thực làm phước điền cho tôi, mong Ngài ở lại vườn nầy, tôi sẽ thường cúng dường. 

Tôn Giả thấy ân cần liền nhận lời ở trong vườn ấy nhập chánh định thắng diệu giải thoát.  Tôn Giả lại nghĩ rằng thân hôi thúi này luân hồi sanh tử, việc nên làm đã làm xong, nay tôi phải nhập viên tịch vĩnh chứng vô sanh.  Nghĩ như vậy rồi Tôn Giả bay lên hư không nhập hỏa quang định hiện các thần biến phóng ánh sáng lớn, trên chói lửa hồng, dưới chảy nước trong.  Bỏ thân ấy rồi thần thức chẳng sanh vĩnh viễn chứng vô dư Niết bàn giới. 

Trưởng giả thâu thi hài dùng dầu thơm để thiêu lại lấy nước sữa để tắt lửa, thâu xương tàn để trong bình mới xây tháp treo phan lọng, lòng rất kính tin, rưới ba mươi thứ nước thơm và phát đại nguyện cầu các tướng hảo. 

Nầy chư Tỳ Kheo !  Trưởng giả thuở quá khứ ấy chính là Nan Đà hiện nay.  Do nơi nghiệp kính tin cúng dường nên nay thọ quả báo cảm được ba mươi tướng thắng diệu". 

Đại chúng lại có chỗ nghi lại bạch đức Phật :  "Bạch đức Thế Tôn ! Tỳ Kheo Nan Đà đã từng tạo nghiệp gì, nếu không xuất gia bỏ trần tục thì quyết sẽ nối ngôi Luân Vương ?". 

Đức Phật bảo các Tỳ Kheo :  "Thuở quá khứ trong kiếp Hiền này lúc người thọ hai muôn tuổi, có Phật Ca Diếp Ba xuất thế đủ mười đức hiệu an trụ tại rừng Thí Lộc.  Trong thành ấy có vua tên Ngật Lật Chỉ, dùng pháp trị dân làm đại Pháp Vương, có ba Vương Tử.  Việc giáo hóa đã xong, Phật Ca Diếp Ba nhập đại Niết bàn.  Nhà vua kính tin dùng các gỗ thơm như chiên đàn, trầm thủy, hải ngạn, ngưu đầu, thiên mộc hương để làm lễ trà tỳ, rưới tắt lửa với sữa thơm, thâu Xá lợi của Phật đựng trong bình vàng báu xây tháp bằng tứ bửu, ngang rộng đều một do tuần, cao nửa do tuần.  Lúc đặt tướng luân lên tháp, Vương Tử thứ hai đích thân treo lọng ở giữa. 

Nầy chư Tỳ Kheo ! Vương Tử thứ hai thuở ấy chính là Nan Đà vậy.  Do thuở xưa ông ấy kính tâm cúng dường treo lọng ở giữa tháp, thiện nghiệp ấy làm cho ông hai ngàn năm trăm đời thường làm Lực Luân Vương cai trị một châu thiên hạ.  Trong đời nầy nếu chẳng xuất gia, Nan Đà lại sẽ làm Lực Luân Vương được đại tự tại". 

Trong đại chúng lại còn nghi bạch đức Phật :  "Bạch đức Thế Tôn ! Tỳ Kheo Nan Đà từng tạo nghiệp gì mà nay ở trong đệ tử Phật là người thiện hộ căn môn đệ nhứt ?". 

Đức Phật phán dạy :  "Nầy chư Tỳ Kheo ! Đây là do nguyện lực vậy.  Thuở Phật Ca Diếp Ba, đời trước Nan Đà xả tục xuất gia, thân giáo sư của ông ấy ở trong pháp của Phật Ca Diếp Ba, thiện hộ căn môn được xưng là đệ nhứt.  Ông ấy trọn đời tự giữ phạm hạnh, nhưng hiện đời ấy không chứng ngộ.  Lúc lâm chung ông ấy phát thệ rằng :  Tôi ở chỗ Phật trọn đời giữ hạnh mà không chứng ngộ.  Tôi nguyện đem căn lành tu hành nầy, lúc Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời, tôi sẽ ở trong giáo pháp của đức Phật ấy lìa tục xuất gia dứt các phiền não được quả A La Hán.  Thân giáo sư tôi đây thiện hộ căn môn đệ nhứt, tôi nghuyện sau nầy ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca Mưu Ni tôi cũng là người thiện hộ căn môn đệ nhứt. 

Do nguyện lực ấy nên nay đây Nan Đà là người thiện hộ căn môn đệ nhứt trong hàng đệ tử Phật. 

Nầy chư Tỳ Kheo ! Nếu thuần ác nghiệp cảm thuần ác báo, nếu thần thiện nghiệp cảm thuần thiện báo, nếu là tạp nghiệp sẽ cảm tạp báo.  Vì thế nên các ông phải rời lìa thuần ác nghiệp và tạp nghiệp mà tu thuần thiện nghiệp.  Các ông phải tu như vậy".


Xem dưới dạng văn bản thuần túy