Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ, vườn Kỳ Thọ
Cấp Cô Độc, Tôn Giả A Nan sáng sớm từ thiền định dậy cùng năm
trăm Tỳ Kheo đồng đến chỗ đức Phật chắp tay cung kính lễ chưn
Phật rồi ở một bên.
Đức Thế Tôn bảo A Nan rằng :
"Phật
có pháp yếu sơ trung hậu đều lành, nghĩa ấy vi diệu thuần nhứt
không tạp đầy đủ tướng phạm hạnh thanh bạch. Đó là nhập mẫu
thai tạng Tu đa la pháp vậy. Các ông phải nghe kỹ khéo suy nghĩ,
nay Phật vì các ông phân biệt giải nói".
Tôn giả A Nan bạch Phật :
"Bạch
đức Thế Tôn ! Chúng tôi xin thích muốn được nghe".
Đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan :
"Nếu
có chúng sanh lúc muốn nhập thai, nhơn duyên đầy đủ thì được thọ
thân, nếu chẳng đủ duyên thì chẳng thọ thân.
Thế nào gọi là chẳng đủ
duyên ? Đó là cha mẹ phát khởi tâm nhiễm ái, trung ấm hiện tiền
cầu chỗ thọ sanh, nhưng cha mẹ này trắng đỏ hòa hiệp hoặc trước
hoặc sau mà chẳng chung thời gian, trong thân còn có các bịnh
hoạn. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.
Thai tạng của người mẹ,
hoặc có bịnh phong hoàn khí huyết bế tắc, hoặc mỡ bế tắc,
hoặc thịt tăng kết, hoặc bịnh chất mặn, bịnh bụng lúa mạch,
bịnh lưng eo kiến, hoặc như miệng lạc đà, như gỗ cong càng xe, như
trục bánh xe, như miệng cốt bánh xe, như lá cây, hoặc cong vòng
như măng tre cong, hoặc phía trong thai tạng như tua hột lúa mạch,
hoặc tinh huyết rỉ chảy nhiều chẳng dứt, hoặc bịnh đái hạ chảy
nước, hoặc đường thai tạng quá rít, hoặc trên nhọn dưới nhọn,
hoặc cong, hoặc cạn, hoặc lủng lọt, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc
ngắn nhỏ, và các tạp bịnh. Nếu như vậy thì chẳng nhập thai.
Hoặc cha mẹ tôn quí có
phước đức lớn mà trung ấm ti tiện. Hoặc trung ấm tôn quí có
phước đức lớn mà cha mẹ ti tiện. Hoặc đều có phước đức mà
không nghiệp tương cảm. Nếu như vậy cũng chẳng nhập thai.
Trung ấm ấy lúc muốn thọ
thai trước phát khởi hai quan niệm điên đảo. Lúc cha mẹ hòa
hiệp, nếu trung ấm nam thì đối với mẹ sanh lòng yêu, với cha sanh
lòng giận, lúc cha chảy tinh thì cho là của mình. Nếu trung ấm
nữ thì đối với mẹ sanh lòng giận, với cha sanh lòng yêu, lúc mẹ
chảy nhớt thì cho là của mình. Nếu trung ấm không khởi lòng yêu
giận ấy thì không thọ sanh.
Nầy A Nan ! Thế nào được
thọ thai ? Đó là cha mẹ khởi lòng ái nhiễm, nguyệt kỳ đều
thuận, trung ấm hiện tiền, không có những bịnh những lỗi như
trên, nghiệp duyên đầy đủ, như vậy thì thọ thai.
Trung ấm ấy lúc muốn nhập
thai còn có hai thứ : một là không phước đức, hai là có phước
đức lớn.
Trung ấm không phước đức, tâm
giác quán khởi lên thấy cảnh giới liền nghĩ rằng : Nay tôi gặp
gió lạnh mưa tối, người đông ồn ào, nhiều oai dữ đến bức hại,
do đó nên sợ hãi mà nghĩ rằng : nay tôi phải chạy vào nhà cỏ,
nhà lá, hoặc ẩn trốn chưn tường, hoặc chạy vào núi, chằm, rừng
rậm, hang động, lại còn phát sanh nhiều thứ thấy khác nữa. Tùy
theo chỗ nghĩ thấy bèn nhập vào thai mẹ.
Nầy A Nan ! Trung ấm ấy lúc
tối sơ vào thai mẹ có tên là ca la lã, đây là nương chất bất
tịnh của cha mẹ và nghiệp quá khứ của nó mà được thọ thân.
Nghiệp ấy và trong các duyên cha mẹ đều riêng chẳng tự sanh, do
sức hòa hiệp mà thọ thân. Ví như lấy thùng đựng chất lạc và
dùng dây v. v... mà sản xuất chất tô. Trong riêng các món đều
không chất tô, do sức hòa hiệp mới sanh được chất tô.
Thân ca la lã cũng như vậy,
sức nhân duyên hoà hiệp thì được thọ thai.
Lại nầy A Nan ! Ví như nương
nơi cỏ xanh, phân bò, táo và lạc mà đều riêng sanh côn trùng.
Trong mỗi thứ không có trùng, do sức nhân duyên thì trùng sanh.
Lúc trùng ấy sanh đều riêng theo chỗ nó nương mà có màu chỗ đó,
hoặc xanh hoặc vàng đỏ trắng.
Vì thế nên biết phụ mẫu
bất tịnh mà sanh thân ấy, tìm trong các duyên đều chẳng có thân,
cũng chẳng rời ngoài sức các duyên hòa hợp mà thọ thai. Lúc
thân ấy sanh cùng tứ đại chủng tánh của cha mẹ cũng chẳng sai
khác. Đó là địa đại làm chất cứng, thủy đại làm chất ướt,
hỏa đại làm chất nóng, phong đại làm chất động. Thân ca la lã
nếu chỉ có địa đại mà không thủy đại thì như người bốc bột hay
tro khô trọn chẳng hòa hiệp được. Nếu chỉ có thủy đại mà không
có địa đại thì như dầu hay nước tánh nó lỏng ướt bèn chảy
tan. Nếu chỉ có địa giới thủy giới mà không hỏa giới thì như
mùa hạ khối thịt tươi để chỗ râm không nắng chiếu nó sẽ thúi
rã. Nếu chỉ có địa thủy và hỏa mà không có phong giới thì
chẳng tăng trưởng như có người thợ và đệ tử giỏi nghề thổi
đường làm thành nhiều món trong ruột trống bọng, nếu không sức
gió thổi thì chẳng nên được. Bốn đại tánh ấy y trì lẫn nhau
mà được kiến lập.
Vì thế nên biết thân ca la
lã cũng vậy, nhơn nơi cha mẹ tứ đại và gió nghiệp mà được
sanh. Trong mỗi duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà được thọ
thân.
Lại nầy A Nan ! Ví như hột
giống mới sạch khéo cất chứa chẳng cho trùng ăn, không hư mục
cháy khô lủng lỗ. Có người chọn ruộng tốt chỗ nhuần ẩm mà
gieo hột giống ấy rồi muốn trong một ngày mầm cây nhánh lá tậm
rợp bông trái sum suê thảy đều đầy đủ có được chăng ?".
-
Bạch đức Thế Tôn ! Không được !
-
Nầy A Nan ! Cũng vậy, thân ca la lã đều từ nhơn duyên thứ
đệ sanh trưởng mà chẳng được đồng thời tất cả các căn đều đầy
đủ. Thế nên phải biết dầu từ cha mẹ mà có thân ấy, nhưng tìm
trong các duyên đều không có, do sức hòa hiệp mà có thọ sanh.
Lại nầy A Nan ! Ví như người mắt sáng cầm châu nhựt quang đặt
trong ánh nắng giữa ngày, đem phân bò khô treo trên ấy cách châu
vừa chừng bèn phát sanh lửa.
Cũng vậy, thân từ cha mẹ ra,
thân ca la lã có năm ấm : sắc, thọ, tưởng, hành và thức, gọi
nó tên là danh sắc. Trong sát na thọ thân đã phải trải qua các
sự khổ, Phật chẳng khen tặng, huống lại thời gian dài luân hồi
các cõi.
Ví như chút phẩm còn là dơ
hôi huống là nhiều.
Thân ngũ ấm ca la lã ấy, ai
sẽ ưa thích nó.
Lại nầy A Nan ! Thân ấy ở
trong thai mẹ trải qua ba mươi tám thất nhựt rồi mới sanh ra.
Thất nhựt thứ nhứt, lúc ở
thai mẹ tên ca la lã, thân tướng tối sơ hiện ra như giọt sanh lạc,
trong bảy ngày hơi nóng nấu nung tứ đại lần thành.
Thất nhựt thứ hai, lúc ở
thai mẹ gió nghiệp được cảm gọi là biến mãn, gió ấy rất nhỏ
nhẹ thổi hông tả và hông hữu của mẹ khiến ca la lã thân tướng
lần hiện, dạng như lạc đặc, hoặc như tô đọng, hơi nóng nấu nung
bèn chuyển làm thân an phù đà tứ đại lần thành.
Thất nhựt thứ ba, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên tàng khẩu, do sức gió này khiến
lần ngưng kết, an phù đà ấy chuyển làm bế thủ dạng như chầy đâm
thuốc mà ngắn nhỏ. Ở trong thai hơi nóng nấu nung tứ đại ấy
lần tăng trưởng.
Thất nhựt thứ tư, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp thủ, do sức gió ấy khiến
bế thủ chuyển làm già na dạng như đá ấm, hơi nóng nấu nung tứ
đại lần tăng .
Thất nhựt thứ năm, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên nhiếp trì, do sức gió ấy hay
khiến già na chuyển làm bát la xa khư các mụt vỡ ra xuất hiện
hai vai hai vế và thân đầu, như tháng mùa cây cối cành lộc phát
sanh, sức gió nhơn duyên các bóng mụt xuất hiện cũng vậy.
Thất nhựt thứ sáu, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phạn, do sức gió ấy mà bốn
tướng xuất hiện, đó là hai gối hai cánh.
Thất nhựt thứ bảy, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên triền chuyển, do sức gió ấy có
bốn tướng xuất hiện, đó là hai bàn chưn hai bàn tay, bốn tướng
này mềm dịu như khối bọt.
Thất nhựt thứ tám, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phiên chuyển, do sức gió ấy có
hai mươi tướng xuất hiện, đó là tướng hai mươi ngón chưn tay, như
mưa xuống nhánh chồi lần được tăng trưởng, do sức gió nghiệp các
căn hiện ra cũng vậy.
Thất nhựt thứ chín, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên phân tán, do sức gió ấy hiện ra
chín tướng, đó là hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng và chỗ
đại tiện tiểu tiện tên là cửu tướng .
Thất nhựt thứ mười, lúc ở
thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên ngạnh, do sức gió ấy nên
liền cứng chắc. Lại có nghiệp phong tên là phổ môn thổi thân
trong thai khiến đều nổi phồng như trái ổi.
Thất nhựt thứ mười một,
lúc ở thai mẹ lại có cảm nghiệp phong tên là kim cương, do sức
gió ấy ở tại trong thai hoặc lên hoặc xuống khiến các lỗ trên
thân đều được thông suốt, cũng do sức gió khiến người mang thai
hoặc buồn hoặc vui đi đứng ngồi nằm tánh nết đổi khác vận động
tay chưn khiến các lỗ thân thai lần tăng trưởng, ở trong lỗ miệng
chảy ra máu đen, trong lỗ mũi chảy ra nước dơ, gió ấy hồi chuyển
rồi dứt.
Thất nhựt thứ mười hai, lúc
ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là khúc khẩu, do sức gió ấy
trong thân thai giữa hai hông sanh đại trường tiểu trường như tơ sen
hoặc như nhợ sen để trên đất, cuộn mười tám vòng ở trong thân.
Lại có nghiệp phong tên là xuyên phát, do sức gió ấy mà ba trăm
hai mươi chi tiết và trăm lẻ một huyệt sanh trong thân thai.
Thất nhựt thư mười ba, lúc
ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cơ khát, do sức gió ấy
thân thai trống gầy sanh ý tưởng đói khát, bà mẹ ăn uống có
chất bổ dưỡng liền thấm nuôi thân thai từ lỗ rốn và các huyệt.
Đức Thế Tôn nói kệ rằng :
Đứa con ở thai mẹ
Trải qua mười ba thất
Thân nó biết trống gầy
Nên nghĩ tưởng đói khát
Bà mẹ có ăn uống
Thấm nuôi lấy thân thai
Do đó thân mạng còn
Lần lần được lớn thêm.
Thất nhựt thứ mười bốn,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tuyến khẩu, do sức
gió ấy sanh chín trăm gân giao kết trước sau và hai bên thân.
Thất nhựt thứ mười lăm, lúc
ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là liên hoa, do sức gió ấy
sanh hai mươi mạch chất bổ uống ăn chảy vào các mạch ấy nhuần
ích nơi thân. Những gì là hai mươi ? Đó là phía trước phía sau
bên tả và bên hữu của thân đều riêng có năm mạch. Mỗi mạch ấy
đều riêng có bốn mươi mạch nhỏ chi phái. Mỗi mạch nhỏ ấy lại
đều riêng có một trăm chi phái nhỏ. Phía trước thân, hai vạn chi
mạch nhỏ tên là thương khư. Phía sau thân, hai vạn chi mạch nhỏ
tên là lực. Bên tả thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là an định.
Bên hữu thân, hai vạn chi mạch nhỏ tên là cụ thế. Tám vạn chi
mạch lớn nhỏ như vậy sanh nơi thân ấy, và nó còn có nhiều màu
sắc, đó là xanh vàng đỏ trắng màu tô màu lạc màu dầu. Tám
vạn mạch ấy, mỗi mạch mỗi rễ, trên mỗi rễ sanh một lỗ hoặc hai
lỗ đến bảy lỗ, mỗi lỗ đều liền nhau với lỗ lông, như rễ sen có
các lỗ.
Thất nhựt thứ mười sáu,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là cam lộ, do sức gió ấy
làm cho mắt tai mũi miệng ngực ức bốn bên tam tạng chỗ chín lỗ
đều khai phát hơi thở ra vào trên dưới thông suốt không chướng
ngại. Nếu có uống ăn tư nhuận thân ấy, có chỗ ngừng chứa lại
hay tiêu hóa theo phía dưới chảy ra. Như thợ gốm và đệ tử giỏi
nhồi bùn bố trí vòng dây dưới trên xoay chuyển tạo thành đồ
vật. Đây cũng vậy, do sức gió và nghiệp thiện ác khiến mắt tai
v.v...lần lần đầy đủ.
Thất nhựt thứ mười bảy,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là mao ngưu diện, do sức
gió ấy khiến hai mắt được sáng sạch, các căn tai mũi thành
tựu. Ví như có mặt gương bị bụi đóng, hoặc dùng bột gạch và
dầu tro chùi lau cho sạch. Sức gió nghiệp thổi các căn mắt tai
v. v...khiến được sáng sạch cũng như vậy.
Thất nhựt thứ mười tám,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là đại kiên cường, do sức
gió ấy làm cho các căn lần hoàn thành mà còn sáng sạch. Ví
như nhựt nguyệt bị mây mù che khuất gió mạnh bỗng nổi lên thổi
tan mà nhựt nguyệt ấy bỗng rất sáng chói. Gió nghiệp thổi các
căn làm sáng sạch thêm cũng vậy.
Thất nhựt thứ mười chín,
lúc ở thai mẹ do sức gió nghiệp trước mà bốn căn nhãn nhĩ tỷ
thiệt thành tựu. Lúc tối sơ nhập thai đã có ba căn là thân căn
mạng căn và ý căn. Như vậy đến đây các căn đều đầy đủ.
Thất nhựt thứ hai mươi, lúc
ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là kiên cố, do sức gió ấy
khiến trong thân sanh các thứ xương. Trong mỗi chưn sanh hai mươi
xương, gót có bốn, mắt cá có hai, gối có hai, vế có hai, eo lưng
có ba, xương sống có mười tám, sườn có hai mươi bốn, ngực có
mười ba, mỗi tay có hai mươi, cánh có bốn, vai có hai, hàm có
hai, sọ có bốn và gốc răng có ba mươi hai. Ví như thợ điêu khắc
và đệ tử trước dùng gỗ cứng sau dùng dây mực tạo thành hình
tượng, đầu chưa đắp bùn mà bấy giờ gọi là cốt tượng. Do sức
gió nghiệp lúc sanh các xương cũng vậy. Trong bảy ngày nầy, trừ
các xương nhỏ còn các xương lớn được sanh số có hai trăm cái.
Thất nhựt thứ hai mươi mốt,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh khởi, do sức gió
ấy mà sanh thịt trên thân. Ví như thợ hồ và đệ tử đem hồ tô
tường vách, do sức gió nghiệp hay sanh thịt trên thân cũng vậy.
Thất nhựt thứ hai mươi hai,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là phù lưu, do sức gió
ấy mà sanh máu huyết.
Thất nhựt thứ hai mươi ba,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là tịnh trì, do sức gió
ấy mà sanh da nơi thân.
Thất nhựt thứ hai mươi bốn,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì vân, do sức gió
ấy làm cho da thứa được điều hòa bằng phẳng sắc sáng nhuần
bóng.
Thất nhựt thứ hai mươi lăm,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là trì thành, do sức gió
ấy mà máu thịt tăng trưởng.
Thất nhựt thứ hai mươi sáu,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là sanh thành, do sức gió
nầy mà sanh lông tóc móng, mỗi thứ đều liền với các mạch.
Thất nhựt thứ hai mươi bảy,
lúc ở thai mẹ lại có nghiệp phong tên là khúc thược, do sức gió
ấy làm cho thân tướng lần thành. Hoặc đời trước tạo nghiệp ác
bỏn sẻn chẳng bố thí, hoặc chẳng nghe lời dạy bảo của cha mẹ
sư trưởng, do nghiệp ác ấy nên thân tướng xấu, nếu thân cao lớn
mập trắng mềm mại mà cho là đẹp thì lại thọ lấy thân lùn ốm
đen cứng, hoặc thọ lấy thân phần chẳng đầy đủ, hoặc thọ lấy
thân đui điếc câm ngọng các căn chẳng đủ, giọng nói người chẳng
muốn nghe, thân thể xấu xí như ngạ quỉ, do nghiệp ác mà thọ lấy
thân chẳng vừa ý như vậy, cha mẹ quyến thuộc thấy còn chẳng vui
huống là người khác. Nếu đời trước tạo mười nghiệp lành ưa bố
thí, không có lòng gian tham bỏn xẻn dua dối phỉnh gạt, biết nghe
lời cha mẹ sư trưởng dạy bảo, do đó nên thọ được thân không có
các tướng xấu xí tàn tật, mà đoan trang xinh đẹp đủ các tướng
tốt, giọng nói người thích nghe, ai thấy cũng mến ưa, do nghuệp
thiện mà thọ được thân thắng diệu như vậy.
Thân ở thai mẹ ấy, nếu là
nam thì ngồi bẹp trong bụng mẹ phía nách hữu hai tay bụm mặt
hướng về xương sống mẹ ở yên đó. Nếu là nữ thì ngồi bẹp trong
bụng mẹ phía nách tả hai tay bụm mặt quay lưng về phía sống lưng
mẹ ở yên đó. Thân thai ấy ở dưới sanh tạng trên thục tạng, hơi
nóng nấu nung, nằm chỗ trói cột như ở trong túi da. Người mẹ ăn
nhiều hay ăn ít, ăn ngon ăn dở, ăn khô ăn ướt, ăn đắng cay mặn chua
nóng lạnh, hoặc dâm dục, đi gấp nhảy nhót, nằm lâu ngồi lâu, thân
thai điều cảm thọ khổ não. Lúc ở thai mẹ chịu nhiều khổ bức
bách, loài người còn vậy huống là loài địa ngục khó có gì để
ví dụ được. Ai là người có trí mà còn ưa thích thân trong biển
sanh tử.
Thất nhựt thứ hai mươi tám,
lúc ở thai mẹ phát sanh tám ý tưởng điên đảo : một là tưởng
ngồi xe cỡi ngựa, hai là tưởng lầu gác, ba là tưởng giường
chõng, bốn là tưởng suối chảy, năm là tưởng ao hồ, sáu là
tưởng sông rạch, bảy là tưởng vườn tược, tám là tưởng vườn
rộng lớn.
Thất nhựt thứ hai mươi chín,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là hoa điều, do sức gió
ấy khiến thân thai sắc sáng nhuần bóng các tướng rõ ràng, đều
do quá khứ đã tạo các nghiệp sai biệt chẳng đồng, tùy hình
loại riêng mà có các thứ màu sắc, hoặc màu trắng, màu đen,
hoặc màu chẳng trắng chẳng đen, hoặc màu xanh, màu khô khốc,
màu nhuần bóng.
Thất nhựt thứ ba mươi, lúc
ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là thiết khẩu, do sức gió ấy
mà tóc lông móng đều tăng trưởng, cũng hiện các ánh sáng trắng
đen, theo nghiệp duyên phát khởi mà sanh tướng ấy.
Thất nhựt thứ ba mươi mốt
đến thất nhựt thứ ba mươi lăm, lúc ở thai mẹ thân tướng trưởng
đại lần đầy đủ tướng người.
Thất nhựt thứ ba mươi sáu,
lúc ở thai mẹ sanh tâm yểm ly chẳng vui thích.
Thất nhựt thứ ba mươi bảy,
lúc ở thai mẹ phát khởi năm ý tưởng điên đảo : Một là tưởng
bất tịnh, hai là tưởng hôi dơ, ba là tưởng ngục tù, bốn là
tưởng tối tăm, năm là tưởng nhàm gớm. Đứa con ở thai sanh các
tâm nhàm lìa ấy.
Thất nhựt thứ ba mươi tám,
lúc ở thai mẹ lại cảm nghiệp phong tên là câu duyên, do sức gió
này liền xoay chuyển. Lại có một thứ gió tên là xu hạ hay làm
cho đầu hướng xuống, hai tay duỗi dài làm muốn sanh ra. Nếu đứa
con ấy đời trước từng chứa họp các nghiệp đọa lạc làm cho thân
ấy tay chưn tung hoành chẳng chuyển trở được, do nghiệp ác nên
chết trong bụng mẹ. Lúc ấy người mẹ chịu nhiều đau khổ hoặc
phải chết. Nếu đứa con ấy đời trước tu nghiệp thiện tạo nhơn
trường thọ, lúc sắp sanh ra mẹ con an ổn không có các nạn khổ
như trên.
Quá thất nhựt thứ ba mươi
tám rồi, lúc sắp sanh ra chịu các sự đau khổ mới sanh được. Do
đó nên biết rằng thọ lấy thân ấy thiệt là khổ lớn.
Lúc tối sơ sanh ra, hoặc nam
hay nữ vừa sanh rơi xuống, hoặc lấy tay bưng, hoặc khăn áo hứng,
hoặc tại giường chiếu, hoặc trong nhà, hoặc tại đất, hoặc chỗ
xa xôi, hoặc tại giữa ngày, hoặc mùa đông mùa hạ gió lạnh hơi
nóng chạm xúc, thân sơ sanh chịu đau đớn lớn, như bò sống bị lột
da chạm phải tường vách, hoặc ở tại đất trống bị trùng kiến
cắn, cũng như có người bị muỗi mòng cắn chích mà thêm bị đánh
đập, lúc sơ sanh dùng nước ấm nóng tắm chạm đến thân đau đớn
cũng vậy.
Con đã được sanh lần tăng
trưởng, mẹ dùng sữa tạp huyết nơi thân để nuôi con mà Phật đã
nói rộng ở các kinh khác.
Vì thế nên biết rằng thân
ấy đều thành tựu bởi những bất tịnh và đau khổ. Ai là người
có trí mà lại mến thích thân sanh tử như vậy.
Lại nầy A Nan ! Lúc sơ sanh
trong bảy ngày có tám vạn hộ trùng theo thân mà sanh, nó tung
hoành ăn nuốt.
Có hai hộ trùng tên sĩ phát
nương tóc ăn tóc. Có hai hộ trùng nương mắt ăn mắt. Có bốn hộ
trùng tên án thừa, tên hữu ngạc, tên phát bịnh và tên viên mãn
nương đầu ăn đầu. Có một hộ trùng tên hắc đạo diệp nương tai ăn
tai. Có một hộ trùng tên tàng khẩu nương mũi ăn mũi. Có hai hộ
trùng tên diêu trịch và biến trịch nương môi ăn môi. Có một hộ
trùng tên châm khẩu nương lưỡi ăn lưỡi. Có một hộ trùng tên lợi
khẩu nương cuống lưỡi ăn cuống lưỡi. Có một hộ trùng tên thủ
viên nương nướu ăn nướu. Có hai hộ trùng tên thủ võng và bán
khuất nương bàn tay ăn bàn tay. Có hai hộ trùng tên viễn tý và
cận tý nương cánh tay ăn cánh tay. Có hai hộ trùng tên thiết và
cận thiết nương yết hầu ăn yết hầu. Có hai hộ trùng tên kim
cương và đại kim cương nương tim ăn tim. Có hai hộ trùng tên luy và
luy khẩu nương thịt ăn thịt. Có hai hộ trùng tên cụ sắc và cụ
xưng nương huyết nút huyết. Có hai hộ trùng tên dũng kiện và
hương khẩu nương gân ăn gân. Có hai hộ trùng tên bất cao và hạ
khẩu nương xương sống ăn xương sống. Có một hộ trùng tên chỉ sắc
nương mỡ ăn mỡ. Có một hộ trùng tên hoàng sắc nương mật ăn
mật. Có một hộ trùng tên chơn châu nương phổi ăn phổi. Có một
hộ trùng tên địch nương lá lách ăn lá lách. Có trăm hộ trùng
tên là nguyệt, có trăm hộ trùng tên nguyệt khẩu, có trăm hộ
trùng tên huy diệu, có trăm hộ trùng tên huy diện và trăm hộ
trùng tên quảng đại, năm trăm hộ trùng này nương bên tả ăn bên
tả. Có năm trăm hộ trùng có năm tên như trên nương bên hữu ăn bên
hữu. Có bốn hộ trùng tên thiểu xuyên, đại xuyên, cốt xuyên và
cốt diện nương xương ăn xương. Có bốn hộ trùng tên đại bạch,
tiểu bạch, hấp lực và hổ đạo nương mạch ăn mạch. Có bốn hộ
trùng tên ý lạc, sư tử lực, thố phúc và đam dục nương sanh tạng
mà ăn sanh tạng. Có hai hộ trùng tên dũng mãnh và dũng mãnh
chủ nương thục tạng ăn thục tạng. Có bốn hộ trùng tên diêm
khẩu, võng khẩu, uẩn khẩu và điểu khẩu nương đường tiểu ăn
đường tiểu. Có bốn hộ trùng tên ưng tác, đại tác, toái mạt và
ức sô nương đường đại ăn đường đại. Có hai hộ trùng tên hắc
diện và khả úy diện nương vế ăn vế. Có hai hộ trùng tên tật
lại và tiểu lại nương gối ăn gối. Có một hộ trùng tên ngu căn
nương mắt cá chưn ăn mắt cá chưn. Có một hộ trùng tên hắc đầu
nương chưn ăn chưn.
Nầy A Nan ! Lược nói tám
vạn hộ trùng nương thân nầy, ngày đêm ăn nút và có thể làm cho
khí lực hư kém dung nhan tiều tụy, các thứ bịnh khổ đều họp
tại thân, lại hay làm cho tâm lo buồn nhiệt não, dầu có lương y
cũng phải mê lầm chẳng biết thuốc gì để trị. Ai là người có
trí lại mến thích thân sanh tử như vậy.
Lại nầy A Nan ! Từ khi sơ
sanh đến trưởng thành áo cơm nuôi dưỡng thành lập thân ấy, thọ
mạng được trăm tuổi hoặc ngắn ngủi. Trong trăm năm có ba trăm
mùa, xuân là lúc nóng, hạ là lúc mưa, và đông là lúc lạnh.
Mỗi mùa có bốn tháng, một năm có mười hai tháng. Trong trăm năm
có ngàn hai trăm tháng chia nửa tháng trăng nửa tháng không trăng
thành hai ngàn bốn trăm, ngày đêm có ba vạn sáu ngàn, mỗi ngày
ăn hai lần thành bảy vạn hai ngàn bữa ăn, nếu có không ăn cũng ở
số ấy, nghĩa là lúc bịnh, lúc say hoặc nhịn ăn, hoặc lúc sân
hận ngủ say chơi đùa các sự vụ khác và uống sữa mẹ, đó gọi
là không ăn. Thân thể ấy dầu thọ trăm tuổi rồi cũng chết mất.
Ai là người trí mà lại mến thích thân trong biển sanh tử như
vậy.
Lại nầy A Nan ! Thọ thân ấy
có hai thứ khổ : một là các thứ bịnh nhóm họp làm khổ gọi
là nội khổ, hai là người và phi nhơn bức não gọi là ngoại khổ.
Những gì gọi là các thứ
bịnh nhóm họp nơi thân ? Đó là các thân phần mắt tai mũi lưỡi
răng cổ v. v... đều có các bịnh sanh ra. Hoặc là phong, hoặc
nhiệt, chảy mũi chảy dãi, điên cuồng, khô đét, hơi lên ngột thở,
tiểu tiện lâm lịch, cùi hủi ung thư, trĩ lậu, bụng đau ruột
thắt, ghẻ dữ máu mủ, rét nóng các thứ bịnh đều họp nơi thân.
Còn có trăm lẻ một bịnh tâm hoàng, trăm lẻ một bịnh phong, trăm
lẻ một bịnh đàm và trăm lẻ một bịnh do phong hoàng đàm hòa
hiệp cùng sanh. Bốn trăm lẻ bốn bịnh như vậy bức thiết thân ấy
gọi là nội khổ.
Còn có ngoại khổ gia hại
thân ấy. Đó là hoặc tại lao tù bị đánh đập gông xiềng, hoặc
thẻo tai thẻo mũi, hoặc chặt tay chân, chém đầu lóc thịt. Nếu
không có chư Thiên thần thủ hộ thì có thể bị phi nhơn quỉ quái
làm hại. Hoặc bị muỗi mòng ong kiến độc trùng cắn chích.
Hoặc nóng rét đói khát gió mưa các thứ khổ não bức thiết thân
ấy. Thân người còn dường ấy huống là thân các ác đạo khổ khó
kể hết. Đó là do thuở quá khứ tạo các nghiệp bất thiện nên
phải thọ báo như vậy. Hoặc ngừa binh khí gia hại mà xây thành
lũy tường hào để bảo vệ lấy thân. Vì ngăn gió mưa trùng độc
mà cất nhà cửa. Vì bốn trăm lẻ bốn bịnh nội khổ ngoại khổ
mà cầu tìm uống ăn y phục giường mền thuốc men ruộng vườn nhà
phòng vàng bạc nhà cửa xe cộ tôi tớ đồ dùng cung cấp, nếu
chẳng vừa ý thì sanh khổ não. Dầu được dư thừa thì tham lam
bỏn xẻn do gìn giữ, lúc bị tan mất lại rất khổ sầu.
Nầy A Nan ! Thân ngũ ấm ấy
mỗi oai nghi đi đứng ngồi nằm không lúc nào chẳng khổ. Nếu đi
mãi không tạm nghỉ thì khổ, đứng mãi, ngồi mãi, nằm mãi cũng
đều khổ.
Nếu đi lâu mà tạm đứng nghỉ
thì sanh ý tưởng vui, kỳ thiệt chẳng phải vui. Hoặc đứng lâu mà
tạm ngồi, hoặc ngồi lâu mà tạm nằm thì vọng sanh ý tưởng vui,
thiệt ra không có vui. Vì thế nên gọi thân ngũ ấm đều là khổ.
Nếu có ai hoặc vì tự lợi,
hoặc vì lợi tha, hoặc vì tự tha cùng lợi thì nên chán sợ các
khổ như vậy mà xuất gia tu học, ở nơi pháp Niết bàn giải thoát
tất chẳng luống uổng.
Nếu có người đem y phục
thức ăn giường nệm thuốc men những đồ cần dùng thí cúng cho
người xuất gia ấy thì sẽ được quả báo lớn oai lực phước đức.
Nầy A Nan ! Sắc là thường
hay vô thường ?
-
Bạch Thế Tôn ! Sắc là vô thường !
-
Nầy A Nan ! Nếu vô thường thì khổ hay chẳng khổ ?
-
Bạch Thế Tôn ! Sắc vô thường tức là khổ.
-
Nầy A Nan ! Nếu vô thường khổ tức là pháp bại hoại. Nếu
là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp sắc thân như vậy
là ngã là sở chăng ?
-
Bạch Thế Tôn ! Không. Trong sắc không ngã cũng không ngã
sở.
-
Lại nầy A Nan ! Thọ tưởng hành và thức là thường hay vô
thường ?
-
Bạch Thế Tôn ! Bốn ấm ấy đều vô thường.
-
Nầy A Nan ! Nếu là vô thường thì khổ hay chẳng khổ?
-
Bạch Thế Tôn ! Bốn ấm ấy đều gọi là khổ.
-
Nầy A Nan ! Nếu là vô thường khổ tức là pháp bại hoại.
Nếu là đệ tử đa văn của Phật nghe lời ấy có chấp bốn ấm ấy
là ngã là ngã sở chăng ?
-
Bạch đức Thế Tôn ! Không. Bốn ấm ấy thiệt không ngã ngã
sở.
-
Lại nầy A Nan ! Ngã ấy chẳng ở quá khứ hiện tại vị lai,
hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc thắng hoặc liệt,
hoặc cận hoặc viễn. Tất cả pháp khác cũng đều không ngã không
ngã sở. Dùng như thiệt trí quan sát các pháp không có ngã. Nếu
đệ tử đa văn của Phật mà quan sát như vậy thì sanh lòng chán
lìa mà được giải thoát cứu cánh Niết bàn. Tu học như vậy thì
chứng pháp thân ấy, phần sanh khởi đã hết, phạm hạnh đã lập,
việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau".
Đức Phật nói kinh này rồi, Tôn giả A Nan xa trần rời cấu được
pháp nhãn thanh tịnh, năm trăm Tỳ Kheo chẳng thọ các pháp lậu
tận ý giải. Tất cả đại chúng nghe lời Phật dạy đều rất vui
mừng tín thọ phụng hành.
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|