Ðức
Phật bảo ngài Xá Lợi Phất : "Thuở quá khứ xưa, đức Ðại Uẩn Như Lai Ðẳng
Chánh Giác vì Ðồng Tử Tinh Tấn Hành mà nói rộng pháp tứ vô lượng và sáu Ba
la mật rồi. Ðức Ðại Uẩn Phật lại nói với Tinh Tấn Hành Ðồng Tử rằng : Thế
nào là đại Bồ Tát tùy nhiếp pháp chuyển? Ðại Bồ Tát có đủ bốn nhiếp pháp ,
do đây mà đại Bồ Tát mãi mãi nhiếp lấy chúng sanh.
Những gì
là bốn? Ðó là bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
Những
nhiếp pháp ấy thế nào ? Bố thí có hai thứ là tài thí và pháp thí. Ái ngữ
là đối với tất cả người đến cầu xin hoặc muốn nghe pháp, Bồ Tát đều hay
nói lời mến thương ủy dụ. Lợi hành là hay làm đầy đủ theo ý thích ưa của
mình của người. Ðồng sự là tùy mình có những trí và công đức vì người mà
diễn nói nhiếp thọ xây dựng tất cả chúng sanh cho họ an trụ hoặc nơi trí
hoặc nơi pháp.
Lại nầy
Ðồng Tử! Ở nơi các chúng sanh đến cầu xin thì tâm ý thanh tịnh, đây là bố
thí. Dùng lời lành an ủi, đây là ái ngữ. Làm cho đầy đủ thành tựu nghĩa
lợi, đây là lợi hành. Hiện hành tâm bình đẳng làm thành nghĩa lợi cho họ,
đây là đồng sự.
Lại nầy
Ðồng Tử! Bố thí là chư đại Bồ Tát phát ý hành xả. Ái ngữ là phương tiện vô
gián. Lợi hành là thâm tâm không hối. Ðồng sự là hồi hướng Ðại thừa.
Lại bố
thí là theo từ tâm mà thật hành xả. Ái ngữ là thường chẳng bỏ rời tâm hoan
hỉ. Lợi hành là thành tựu đại bi tâm thường ưa thích việc lợi ích chúng
sanh. Ðồng sự là tu xả bình đẳng không cao hạ tâm luôn hồi hướng Nhứt
thiết chủng trí.
Lại bố
thí là cầu tài đúng pháp thường nghĩ bố thí cứu nghèo thiếu.
Ái ngữ
là đã bố thí rồi còn an trí họ ở nơi pháp nghĩa.
Lợi hành là tự lợi lợi tha bình đẳng nhiếp lấy.
Ðồng sự
là vì muốn lợi ích tất cả chúng sanh nên cứu cánh phát tâm Nhứt thiết
chủng trí.
Lại bố
thí là tất cả sở hữu trong ngoài đều xả ly cả.
Ái ngữ là
nơi tất cả công đức trí huệ không hề giấu tiếc.
Lợi hành
là xả tự lợi chuyên lo lợi tha.
Ðồng sự
là nhiếp tài vật như để trong bàn tay rồi tùy duyên ban cho lòng không ưu
sầu.
Lại pháp
thí là như pháp đã nghe nói rộng lại cho người .
Ái ngữ là
dùng tâm không ô nhiểm mà phân biệt khai thị.
Lợi hành
là dạy người đọc tụng nhẫn đến thuyết pháp không nhàm mỏi.
Ðồng sự
là chẳng rời bỏ tâm Nhứt thiết trí mà đặt để chúng sanh ở chánh pháp.
Lại pháp
thí là vì người đến lui cầu nghe pháp, thì dạy nói đúng pháp của Phật mà
chẳng tuyên nói tạp loạn.
Ái ngữ là
dùng âm thanh vi diệu khai thị chánh pháp.
Lợi hành
là đem y phục đồ uống ăn mền nệm thuốc men và những đồ thiết dụng cấp thí
cho người nghe pháp hoặc người thuyết pháp mà thiếu thốn.
Ðồng sự
là thường phát khởi thâm tâm vô gián thuyết pháp.
Lại pháp
thí là vì biết rõ pháp thí là tối thượng trong bố thí nên Bồ Tát thường
thật hành pháp thí.
Ái ngữ là
những sự lợi ích được diễn thuyết.
Lợi hành
là diễn đạt nghĩa ấy chẳng y theo văn.
Ðồng sự
là muốn khiến viên mãn tất cả Phật pháp nên thường vì chúng sanh theo đúng
chỗ đáng dạy mà hóa độ họ.
Lại bố
thí là Ðàn na Ba la mật. Ái ngữ là Thi la Ba la mật và Sằn đề Ba la mật.
Lợi hành là Tỳ lê gia Ba la mạt. Ðồng sự là Tĩnh lự Ba la mật và Bát Nhã
Ba la mật.
Lại bố
thí là chư Bồ Tát sơ phát tâm. Ái ngữ là chư Bồ Tát đã phát hạnh. Lợi
hành là chư Bồ Tát bất thối chuyển. Ðồng sự là chư Bồ Tát nhứt sanh bổ xứ.
Lại bố
thí là muốn vững chắc gốc rễ Bồ đề. Ái ngữ là muốn thành tựu mầm mộng Bồ
đề. Lợi hành là muốn khai phát diệu hoa Bồ đề. Ðồng sự là muốn thành thục
thắng quả Bồ đề.
Nầy Tinh
Tấn Hành Ðồng Tử ! Ðây gọi là đại Bồ Tát bốn thứ nhiếp pháp. Vì muốn tu
hành đại Bồ đề nên đại Bồ đề dùng bốn nhiếp pháp ấy ở trong đêm dài nhiếp
thọ chúng sanh. Ðây gọi là đại Bồ Tát tùy theo nhiếp pháp mà chuyển.
Nầy Ðồng
Tử ! Nhiếp pháp ấy có vô lượng vô biên đều gọi là đạo Bồ đề vậy.
Ðức Ðại
Uẩn Như Lai khai thị đạo đại Bồ đề như vậy, Tinh Tấn Hành Ðồng Tử ở chỗ
Phật nghe pháp ấy rồi, lại nghe lời khen ngợi tam thế chư Phật ; Ðồng Tử
ấy rất vui mừng, liền đem y phục thượng diệu, đồ uống ăn, mền nệm, thuốc
men và các vật cần dùng dưng cúng đức Phật Ðại Uẩn và chư Thanh Văn Tăng.
Trải qua chín mươi sáu câu chi năm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán
Phật và tăng như vậy và phát nguyện đại Bồ đề.
Dầu Ðồng
Tử ấy làm vô lượng công đức như vậy, mà đức Phật Ðại Uẩn chưa thọ ký Vô
thượng Bồ đề cho Ðồng Tử ấy.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Ông có nghĩ Ðồng Tử Tinh Tấn Hành thưở xưa kia là ai chăng ?
Chính là thân ta vậy. Thuở ấy ta cúng dường, phụng thờ Phật Ðại Uẩn và chư
Tăng trải qua bao nhiêu năm như vậy lại phát nguyện đại Bồ đề mà chưa được
thọ ký.
Từ sau
đức Ðại Uẩn Như Lai diệt độ trải qua vô số kiếp, có Phật Bửu Tánh Như Lai
xuất thế có tám mươi na do tha đệ tử Thanh Văn đều là đại A La Hán chứng
được Ðệ nhứt Ba la mật.
Thời kỳ
ấy có Chuyễn Luân Thánh Vương tên Thiện Kiến đủ bảy báu. Vua Thiện Kiến
dùng luân bửu oai trấn tứ thiên hạ, trị thế với chánh pháp nên hiệu là
Pháp Vương, nhơn đức nuôi người được dân chúng mến trọng, cõi nước nhơn
dân chỗ ở rộng rãi. Ðại thành của vua ngự trị tên Viên mãn , Ðông Tây rộng
mười hai do tuần. Nam Bắc rộng bảy do tuần, an ổn giàu vui, nhơn dân đông
mạnh, rất đáng mến thích, có nhiều của báu, đồ dùng dư dật. Trong thành
Viên mãn ấy có Trưởng giả tên Thiện Huệ nhà giàu có lớn. Trưởng giả ấy đã từng cúng
dường chư Phật quá khứ gieo trồng cội công đức.
Bấy giờ
Phật Bửu Tánh Như Lai quan sát Trưởng giả Thiện Huệ biết Trưởng giả ấy
thiện căn đã thục kham làm pháp thí đại Bồ Tát tạng và là pháp khí chư
Phật . Ðức Phật liền đến nhà Trưởng giả ấy hiện đại thần biến, ngồi kiết
già trên không khai diễn đạo Bồ đề cho Trưởng giả ấy và nói lời khen tặng
tam thế chư Phật.
Nghe đức
Bửu Thắng Như Lai thuyết pháp khai thị và nghe lời khen ngợi tam thế chư
Phật, Trưởng giả Thiện Huệ được lòng tin thanh tịnh vui mừng lớn, liền đem
y phục thượng diệu đồ uống ăn mền nệm thuốc men đồ cần dùng cúng dường
Phật và chư Tăng trải qua ngàn năm và phát nguyện đại Bồ đề. Dầu vậy vẫn
chưa được Phật Bửu Tánh thọ ký.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Trưởng giả Thiện Huệ thuở xưa ấy chính là thân ta vậy. Thuở ấy
ta cúng dường Phật và Tăng một ngàn năm vẫn chưa được thọ ký thành Phật.
Sau khi
Phật Bửu Tánh nhập diệt vô số kiếp có đức Phật Phóng Quang NHư Lai xuất
thế. Tại
sao đức Phật ấy hiệu là Phóng Quang ?
Nầy Xá
Lợi Phất ! Thuở ấy nhà vua trị vì hiệu là Thắng Oán, đô thành tên Thạnh
Liên Hoa, an ổn giàu vui, nhơn dân đông mạnh. Nhà vua có một đại thần dòng
Bà La Môn tên Quang Chủ rất được vua mến trọng. Thắng Oán Vương cắt một
phần tư nước phong vương cho đại thần Quang Chủ. Lúc sau vua Quang Chủ
sanh Thái Tử thân hình đoan chánh có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu,
mỗi thân phần đều phóng tia sáng như mặt nhựt chói lọi, nhơn đó đặt tên là
Phóng Quang.
Quang Chủ
Vương triệu tập các nhà xem tướng giỏi vào cung rồi đưa TháiTử ra cho họ
xem tướng. Xem xong họ đồng quyết đoán Vương Tử sẽ làm Phật. Sau đó ít lâu
Thái Tử Phóng Quang trưởng thành có trí huệ thông đạt.
Bấy giờ
Trời Tịnh Cư Sắc Cứu Cánh dùng sức thông trí biết Thái Tử sắp lên ngôi
Chánh giác, liền đến chỗ Thái Tử hữu nhiễu xong, ở trước Thái Tử mà nói kệ
rằng :
Chẳng phải ở an trong Vương cung
Sanh được công đức thắng thanh
tịnh
Phải nhờ xuất gia mặc ca sa
Chứng quả Vô thượng diệu Bồ đề
Trẻ mạnh qua mau như nước chảy
Lại còn nhanh chóng hơn gió to
Già suy tồi tệ chẳng nên ưa
Hư hoại những gì người đời mến
Già suy hay làm kém thế lực
Muốn được xuất gia cũng khó được
Bồ Tát ngày nay tuổi tráng niên
Phải nên kịp thời phát tinh tấn
Lành thay lành thay bực đại huệ
Lành thay lành thay bực đại ngộ
Lành thay lành thay mau xuất gia
Quyết
thành Vô thượng Ðẳng chánh giác.
Ðược
trời Tịnh cư khai ngộ, Phóng Quang Bồ Tát do lòng tin thanh tịnh mà xuất
gia. Ðương đêm xuất gia ấy liền thành Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác lấy
hiệu là Phóng Quang Như Lai đủ mười đức hiệu được tất cả trời người kính
thờ
Bấy
giờ Thắng Oán Vương đến bảo Quang Chủ Vương rằng : Ta nghe con trai khanh
xuất gia thành Phật. Chẳng rõ đức Thế Tôn đại từ
bi
giáng lâm chăng ? Nếu đức Phật chẳng thương xót đến nơi đây, thì ta sẽ
mang bốn binh chủng đến chỗ đức Như Lai để ta thân thờ cúng dường cung
kính.
Quang Chủ Vương liền hội đại thần tuyên rõ việc ấy. Chư đại thần khuyên
vua phải tự đến chỗ Phật để bạch hỏi sự việc đức đại bi Thế Tôn luôn
thương xót chúng sanh muốn đến chỗ Thắng Oán Vương hay là chẳng đến.
Quang
Chủ Vương liền xa giá cùng quan quân qua chỗ đức Phật Phóng Quang đảnh lễ
chưn Phật rồi bạch sự việc ấy.
Phóng
Quang Như Lai nói với Phụ Vương rằng : Nay Phật sẽ đến chỗ Thắng Oán Vương
vì thương xót chúng sanh vậy !
Ðức
Phóng Quang Như Lai liền cùng hai mươi câu chi đại A La Hán đi qua nước
Thắng oán Vương. Phụ Vương Quang Chủ cũng mang quan quân tùy tuần, sắm đủ
thứ sự thường cúng dường Phật và Tăng, đến biên giới nước được trị vì, Phụ
Vương lễ chưn Phật buồn khóc trở về.
Bấy
giờ Thắng Oán Vương nghe tin đức Phóng Quang Như Lai và đại chúng sắp đến
thành Thạnh Liên Hoa, liền truyền nghiêm sức
đô thành, trừ bỏ sỏi đá rác rưới , đường sá sửa sang
bằng phẳng sạch sẽ, lại rưới nước hương, rải hoa đẹp, trải y báu, treo
phan lọng, trổi âm nhạc. Vua lại truyền rao trong và ngoài đô thành có bao
nhiêu hương và hoa không ai được đem dùng, nhà vua sẽ mua hết để cúng
dường Phật và Tăng, người nào vi lịnh sẽ bị nghiêm phạt.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Thắng Oán Vương đem những vòng hoa, hương thoa hương bột, y
phục quý đẹp, tràng phan lọng báu, đánh trống trổi nhạc, lai trần thiết
nghi vệ oai thế đại vương ra ngoài đô thành để được chiêm ngưỡng đức Phóng
Quang Như Lai và kính lễ cúng dường. Vua cùng quan quân và các hào tộc Bà
La Môn Trưởng Giả Cư Sĩ trong nội thành đồng đến chỗ Phật. Ðã đến rồi,
trước hết vua Thắng Oán đảnh lễ chưn Phật đem hoa hương phan lọng cúng
dường. Kế vua truyền lịnh quan quân hào tộc dân chúng cùng đảnh lẽ cúng
dường đức Phật. Cúng dường xong vua Thắng Oán có đủ tâm hoan hỉ, tâm diệu
thiện, tâm ly cái chướng, tâm vui đẹp cùng chư thần dân theo sau đức Phật.
Nầy Xá
Lợi Phất !Lúc ấy có một Bà La Môn tên Trân Bửu ở cạnh núi Ðại Tuyết, năm
trăm
nho đồng tử làm đệ tử, Bà La Môn Trân Bửu ấy được mọi người tôn trọng,
danh đức đồn xa, giỏi nghệ thuật, thong đạt cứu cánh ba kinh Tỳ Ðà, sách
Ni Kiền Trà, luận Kế La Bà, luận Phân Biệt Tự, luận Ý Ðể Ha Bà, luận Ngũ
Phần Ký, luận Tùy Thuận Thế, luận Từ Tự Chủ, luận Trượng Phu Tướng, ở nơi
tam minh đại giáo của sự tông sư cũng hiểu rành lý thú khéo biết khai
giá. Trong năm trăm đệ tử có một nho đồng tên Mê Già trí huệ thông đạt tài
bằng với Thầy là Bà La Môn Trân Bửu, kham làm đạo Thủ, Mê Già thưa cùng
Thầy rằng : Ðại Sư nên biết cho, tất cả kinh luận được học đều đã thông
đạt, nay tôi sẽ trở về sanh quán, làm sao báo đền được ơn đức Ðại Sư ?
Thầy bảo rằng : Nầy Mê Già! Nếu đệ tử muốn báo ơn Thầy thì dùng của báu
mới rõ hậu ý. Ðó là những gì ? Nếu kiếm được đủ năm trăm đồng vàng thì đủ
để tỏ hết lòng.
Mê Già vâng lời kính lễ từ Thầy mà đi. Nho đồng ấy du hành khắp thôn thành
đình quán quốc ấp vương đô, xứ xứ tìm cầu của báu để tạ ơn thầy. Họp đủ số
tiền ấy rồi toan đem báo ơn, đi lần đến đô thành Thạnh Liên Hoa, xa trông
thấy đô thành trang trí nghiêm lệ, hỏi thăm được biết ngày ấy có đức Phóng Quang
Như Lai cùng hai mươi câu chi đại A La Hán và tám vạn bốn ngàn Bồ Tát sắp
nhập đô thành nên nhơn dân sắm sửa cúng dường lớn, do đó mà đô thành được
trang nghiêm như vậy.
Thoạt
nghe danh hiệu Phật, Nho đồng Mê Già được đại hoan hỉ phát lòng tin thanh
tịnh tự nghĩ rằng : Chư Phật Như Lai xuất thế rất khó được gặp cũng rất
khó như hoa ưu đàm, như rùa mù đáy biển gặp được bọng cây nổi, cả trăm
ngàn đại kiếp hoặc được gặp một lần. Nay ta được gặp thật là hy hữu, phải
đem năm trăm đồng vàng nầy mua hoa quí rải cúng dâng lên đức Phóng Quang
Như Lai, rồi sẽ lại kiếm tiền khác báo ơn thầy. Lúc ấy có một nữ nhơn tay
ôm bảy cành bông ưu bát la từ phía chợ đi lại. Mê Già đón hỏi nơi nào có
được hoa đẹp sanh dưới nước thế nầy. Nữ nhơn đáp tôi ở tại chỗ bán vòng
hoa mua những hoa nầy với giá năm trăm đồng vàng. Mê Già nói nay tôi trả
lại cô số vàng ấy cô có chịu trao hoa chăng ? Nữ nhơn chẳng chịu. Mê Già
lại nói : Nay tôi có năm trăm đồng vàng đây cô giữ lấy một mình. Còn bảy
cành hoa nầy hai người cùng có chung được chăng ? Nữ nhơn hỏi, anh muốn
dùng hoa nầy vào việc gì ? Mê
Già
đáp sẽ đem cúng dường đức Phóng Quang Như Lai. Nữ nhơn nói cứ như lời anh
thì từ nay về sau đời đời thường có lòng thương tưởng làm chồng tôi. Nếu
chịu như vậy tôi sẽ giao cho anh hoa nầy. Mê Già nói : Thôi đi, cô chớ
nói như vậy. Tại sao ? Vì tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ nhiều phóng túng,
tôi không thể hứa nhận lời cô được. Vả lại tôi sẽ ở trong vô số kiếp tu
tập Phật pháp bố thí rộng lớn, hoặc của tiền sản nghiệp, hoặc ngôi vua
thành ấp, hoặc vợ con, hoặc đầu mắt thịt xương, đại khái là tất cả sở hữu
trong thân ngoài thân, không vật gì là chẳng đem bố thí. Hoặc có lúc sẽ bỏ
cô mà vào trong Phật pháp xuất gia. Tánh nữ nhơn giao động nhẹ dạ phóng
túng, lúc tôi tu bố thí lớn cô có thể làm chướng ngại hạnh đại xả của tôi.
Nữ nhơn ấy đáp : Thiệt như lời anh nói thì có lợi ích lớn cho tôi. Dầu cho
hiện nay anh có dem thân của tôi đây bán lấy một đồng vàng, lòng tôi cũng
không hối, quyết chẳng làm ngại sự bố thí của anh. Hoặc chặt thân tôi ra
từng đoạn để xả thí, quyết cũng không đổi lòng làm trở ngại sự tu tập Phật
pháp của anh. Mê Già nói nếu cô có thể bằng lòng như vậy thì được.
Cô nên mau trao hoa cho tôi. Nữ nhơn cầm hoa trao cho Mê
Già.
Ðược hoa
Mê Già tức thì đi đến chỗ Phật, xa trông thấy Ðức Phóng Quang Như Lai cùng
vô lượng đại chúng oai nghi tường tự vô lượng trăm ngàn công đức trang
nghiêm từ đầu kia đi lại.
Thấy đức
Phật Thế Tôn, Mê Già sanh lòng tin thanh tịnh vô lượng hoan hỉ kính mến
đến trước Phật kính lạy chẳng xiết vui mừng. Lại thấy nhiều người trải y
vô giá để cúng dường Phật. Mê Già tự nghĩ rằng nay tôi không có y tốt, chỉ
có cái y da hươu xấu này nên trải giữa đường đở chưn đức Phật. Liền cởi y
trải trên đất.
Lúc ấy
mọi người đua nhau đến lấy y da đem bỏ ngoài xa và đều cười trách rằng sao
lại vì đấng báu quí nhứt trong đời mà lại trải cái y da hươu xấu ấy. Mê
Già Nho đồng vội chạy lượm y da rồi đem trải trên chỗ bùn ướt bên đường
ngã tư mà nghĩ rằng Phóng Quang Như Lai, đấng đại từ bi thương xót tôi mắt
thấy khắp của Phật và trí biết khắp của Phật thấy biết việc nầy mong Phật
lấy chưn đạp lên y da hươu của tôi.
Phóng
Quang Như Lai cảm thương bèn lấy gót chưn dẫm lên y da hươu. Thấy vậy, Mê
Già lòng vui mừng hớn hở liền đem hoa ưu bát la ném lên không phiá trên
đức Phật. Trên hư không lại có vô lượng chư Thiên đồng thời rải hoa trời
mạn đà la, ưu bát la, bát đầu ma, câu vật đầu, phân đà lợi, và các thứ
hương trời : chiên đàn, hương bột. Âm nhạc trời, thanh ca trời vang khắp
hư không cùng cúng dường Phật. Hoa của Mê Già ở riêng một chỗ trên không
biến thành vô lượng ngàn hoa ưu bát la, cánh hoa đều thòng xuống hiệp
thành lộng hoa bay theo trên Phật.
Thấy như
vậy, Mê Già thêm hớn hở phát khởi lòng tin thanh tịnh ở trước Phật tháo mở
búi tóc màu hoàng kim mười hai năm để trải trên đất và phát nguyện Vô
thượng đại Bồ đề : đời sau nếu tôi được thành Phật, thì nay xin được đức
Phóng Quang Như Lai đưa tay an ủi. Lại phát thệ lớn kiên cố rằng : Nếu đức
Phật gót chẳng đạp trên tóc tôi, tay chẳng đưa an ủi tôi, chẳng thọ ký Bồ
đề cho tôi, thì tôi quyết chẳng đứng dậy mà chết khô trên chỗ đất nầy.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Phóng Quang Như Lai Ứng Cúng Ðẳng chánh Giác có mắt thấy khắp,
có trí biết khắp, trong ba đời không sự việc gì mà chẳng thấu tỏ, biết rõ
dục giải của Mê Già nên đức Phật cất gót dẫm lên tóc Mê Già rồi, ngoái ngó
bên hữu bảo chư Thanh Văn đại chúng rằng : chư Tỳ kheo chớ đạp tóc nầy.
Tại sao ? Vì nho đồng nầy sau đây vô số kiếp sẽ thành Phật hiệu Thích Ca
Mâu Ni.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Lúc ấy Mê Già nghe Phật thọ ký hớn hở vui mừng liền bay lên hư
không cao bảy cây đa la, chứng được trăm ngàn câu chi na do tha chánh định
vô động, do thần thông trí lực xem thấy phương đông có hằng sa vô lượng
chư Phật đều thọ ký cho mình rằng.Nầy nho đồng ! Sau đây vô số kiếp, ngươi
sẽ thành Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni . Ba phương kia và bốn hướng thượng hạ
mười phương chư Phật thọ ký cũng như vậy.
Ðược chư Phật thọ ký an ủi rồi,
Mê Già từ trên không xuống đến chỗ Phật do lòng tin mà xuất gia tu tập
phạm hạnh kiên cố thanh tịnh.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Nho đồng Mê Già thuở ấy chính là thân ta vậy. Nếu có đại Bồ Tát
muốn sớm được Phật thọ ký thì nên ở nơi pháp
môn vi diệu Bồ Tát tạng nghe tụng
hiểu biết nghĩa dạy lại người, lại nên tu hành chánh hạnh vô tướng. Tại
sao ? Vì ta nhớ lúc trước gặp đức Phóng Quang Như Lai, không có pháp hạnh
bạch tịnh nào mà ta chẳng tu hành. Dầu vô lượng cần khổ như vậy nhưng
chẳng được Phật thọ ký. Tại sao ? Vì là hữu tướng tu. Sau đó ta mới ở nơi
pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng nghe học an trụ chánh hạnh, đó là vô
tướng hạnh, vô công dụng hạnh, vô sở đắc hạnh. Tu hạnh vô tướng như vậy
nên được đức Phóng Quang Như Lai thọ ký.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Ta nhớ lúc đầu mới gặp đức Phóng Quang Như Lai ta được siêu quả
tất cả hạnh hữu tướng hữu công dụng. Lúc mới thấy Phật ta được tùy giác
tánh tất cả pháp , lại được thông đạt tự tánh vô sanh của tất cả pháp. Kế
đó đức Phật thọ ký cho ta rằng Mê Già nho đồng sau đây vô số kiếp sẽ thành
Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni. Ðương lúc Phật thọ ký, ta chứng được vô sanh
pháp nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Chứng được
những vô sanh pháp nhẫn gì ?
Ta chứng
được : Tất cả sắc pháp vô sở đắc nhẫn,tất cả thọ tưởng hành và thức vô sở
đắc nhẫn, tất cả pháp uẩn xứ giới vô sở đắc nhẫn.
Nầy Xá Lợi Phất ! Nói được nhẫn
là nhẫn thọ các pháp đều vô sở đắc. Tại sao ? Vì chẳng phải lúc chứng được
nhẫn như vậy mà pháp thế gian còn hiện hành, chẳng phải pháp dị sanh ,
pháp hữu học, pháp vô học, pháp Ðộc Giác, pháp Bồ Tát, Pháp Phật mà còn
hiện hành. Tại sao ? Vì do tất cả pháp thế gian xuất thế gian chẳng hiện
hành mà nói là đắc nhẫn, do tất cả pháp cứu cánh không được cũng không bị
được nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy, trong một sát na tận hết tất cả
tướng và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn. Lại nhẫn ấy chẳng nhẫn thọ nhẫn
cũng chẳng hoại mất nhẫn và các sở duyên nên gọi là đắc nhẫn, chẳng nhẫn
thọ nhĩ tỷ thiệt thân và ý cũng chẳng hoại mất nhĩ tỷ thiệt thân và ý cùng
các cảnh duyên nên gọi là đắc nhẫn.
Nhẫn ấy không tận hết cảnh giới
cũng chẳng xu đến cảnh giới nên gọi là đắc nhẫn.
Nầy Xá
Lợi Phất ! Vì thế nên đại Bồ Tát muốn mau được Phật thọ ký chứng vô sanh
pháp nhẫn ấy, thì phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng nầy ân trọng
nghe học thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy người, an trụ
chánh hạnh, đó là hạnh vô tướng, hạnh
vô công dụng, hạnh vô sở đắc, các hạnh ấy gọi là chánh hạnh vậy”.
Bấy giờ
trong đại chúng có trưởng giả tử tên Na La Ðạt Ða nghe đức Thế Tôn nói
pháp môn vi diệu Bồ Tát tạng, lại nghe tán thán công đức của chư Phật chư
Bồ Tát rồi liền rời chỗ ngồi trạch vai hữu, gối hữu chấm đất, hướng Phật
đảnh lễ cung kính chấp tay mà bạch Phật rằng : " Bạch
Ðức Thế Tôn, trước vì chư trưởng giả nói
rộng các pháp tương tục bất tuyệt khai thị như vậy, giáo đạo như vậy làm
cho đều chứng quả A La Hán, tức tại đời nầy tận hết mé sanh tử, mà chưa
từng nghe và nói pháp môn vi diệu đại Bồ Tát tạng và khen ngợi công đức
của chư Phật, chư Bồ Tát. nay tôi may mắn được nghe, được lợi ích
lớn nên phát sanh quan niệm rằng : Ðại thừa như vậy là tôn là thắng là
thượng là diệu, là vô thượng là vô quá thượng, đó là Vô thượng Chánh Ðẳng
Chánh Giác.
Nay tôi
hiện tiền được thân nghe đức Phật nói thọ trì lãnh ngộ mở tỏ các pháp. Các
pháp ấy là phân biệt các pháp không chỗ nương nắm, không ngã không ngã sở,
không có nhiếp thọ
Bạch đức
Thế Tôn ! Nay tôi nghĩ rằng : Trong tất cả thừa mà vô thượng đó là Phật
thừa . Chư Phật Như Lai cũng nói thừa ấy là tối đệ nhứt, là tối vô thượng.
Từ ngày nay tôi phát khởi tâm Vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, vì muốn làm
lợi ích an lạc các chúng sanh, vì muốn xót thương các thế gian . Như đức
Phật xây dựng chư đại Bồ Tát bao nhiêu học xứ, nay tôi sẽ đều y theo học
hết cả ".
Ðức Phật
bảo trưởng giả tử Na La Ðạt La : " Lành thay ! lành thay !
Nầy thiện nam tử ! Vô thượng Bồ đề rất khó tin khó
chứng, rất khó tu khó học. Nay ông có thể phát được tâm ấy”.
Trưởng
giả tử Na La Ðạt La bạch đức Phật : " Vô thượng Bồ đề dầu rất khó tin khó
chứng, rất khó tu tập, nhưng nay tôi phát khởi tâm dũng mãnh tinh tấn
quyết sẽ tu tập Vô thượng Bồ đề chẳng lấy làm khó, lại ở nơi Vô thượng Bồ
đề ấy tôi phụng tu mạnh chắc quyết không thối chuyển.
Bạch
đức Thế Tôn ! Nay tôi phát hoằng thệ :
Giả sử
phát tâm Bồ đề như số cát sông Hằng mới chứng được Vô thượng Bồ đề, ở nơi
sự ấy
tôi càng tinh tấn thêm mỗi mỗi đều phát tâm như vậy trải qua số kiếp như
hằng sa nhẫn đến tùy theo chỗ phát tâm ấy, mỗi mỗi chỗ phát phải do chặt
đứt hằng sa thân phần đầu mình mới phát khởi được tâm Bồ đề ấy, tôi ở
trong sự cần khổ ấy càng thêm tinh tấn trọn chẳng buông bỏ Vô thượng Bồ
đề. Tại sao ? Vì mặc dầu gặp phải những sự đau khổ ấy vẫn phải tu tập nhờ
duyên ấy tất chứng Bồ đề. Huống là chứng Vô thượng Bồ đề thọ các an lạc mà
chẳng tu học . Tại sao ? Vì Vô thượng Bồ đề tánh nó cao rộng đầy đủ lớn
khắp. Phật pháp vô thượng chẳng thể nghĩ bàn chẳng thể cân lường không có
bờ mé chẳng thể tuyên nói. Dầu là vô ngại trí của chư Phật trải trăm ngàn
câu chi na do tha kiếp dùng các ngôn âm tuyên nói Bồ đề ấy chẳng dễ hết
được.
Trưởng
giả tử Na La Ðạt Ða ở trước Phật nói kệ rằng :
"Trăm ngàn câu chi kiếp
Mới phát Bồ đề tâm
Dầu nhiều khổ bức hại
Chẳng bỏ chúng sanh giới
Lúc phát tâm Bồ đề
Cần chặt thân và đạo
Khối lượng bằng Tu Di
Tôi cũng kham nhẫn được
Tôi an trụ Bồ đề
Vì lợi lạc chúng sanh
Nguyện cho tôi đời sau
Như Thế Tôn ngày nay
Xa thừa Thanh Văn kia
Gồm cứu người hạ thừa
Nguyện tôi ở đời sau
Như Thế Tôn ngày nay
Thừa đây là đại thừa
Ðược chư Phật khen tặng
Tôi thấy không gì bằng
Nên tôi thích Bồ đề
vì cứu vớt nguy ách
Vì thoát ba ác đạo
Vì cầu Như Lai đây
Xuất
thế hiện thành Phật ",
Nói kệ
rồi, Trưởng giả Na La Ðạt Ða nghĩ rằng : Nay tôi minh đạt Phật pháp quảng
đại sao tôi chẳng đem giáo hóa vợ con quyến thuộc. Trưởng giả liền đảnh lễ
chưn Phật hữu nhiễu
ba
vòng rồi mau về nhà sắm đồ cúng dường cùng vợ con trai con gái và tôi
trai tớ gái tất cả đồng có bảy người, mang bảy cặp y phục thượng diệu và
những hoa hương đồ cúng dường với năm trăm nhạc công cùng nhau đi vội ra
khỏi thành Vương Xá để được phụng kiến đức Thế Tôn.
Thấy
vậy có nhiều người hỏi . Trưởng giả tử ấy bảo mọi người rằng: Nay có đức
Phật Như Lai Ứng Ðẳng Chánh Giác ở núi Linh Thứu, vô lượng trăm ngàn trời
người đại chúng cùng hội. Ðức Phật dùng vô lượng phương tiện vì chúng sanh
mà tuyên nói khai thị Phật Pháp quảng đại , nên tôi đem quyến thuộc đến
chỗ đức Phật ngự để cầu Phật pháp quảng đại ấy, để cầu thành tựu Phật trí
huệ chẳng nghĩ bàn chẳng cân lượng được ấy , vì muốn gieo trồng cội lành
Vô thượng Bồ đề. Các người nếu muốn thành tựu Phật pháp quảng đại thì nên
cùng nhau đi đến chỗ đức Phật Như Lai sẽ cùng gieo trồng cội lành Phật
pháp vô thượng quảng đại ấy.
Nghe
xong có mười ngàn người ở thành Vương Xá đều muốn đi theo trưởng giả tử
đến chỗ đức Phật ngự.
Trưởng giả tử Na La Ðạt Ða
cùng quyến thuộc và mười ngàn người đồng đến chỗ Phật, đảnh lễ chưn Phật
rồi ở qua một bên. Trưởng giả tử cùng đại chúng tùy tùng đem hoa hương y
phục phan lọng trỗi nhạc ca tụng cúng dường đức Như Lai, và đem y phục báu
đẹp trùm lên mình Phật. Cúng dường xong , Trưởng giả tử vui mừng vô lượng
liền ở trước Phật ca tụng ngợi khen nói kệ rằng :
"Ðấng trượng phu vi diệu đệ nhứt
Chứng thanh tịnh Vô thượng Bồ đề
Phát khởi vô biên thắng trí kiến
Nay tôi cúng dường đức Như Lai
Xưa vô lượng kiếp nhiều tu hành
Vì lợi chúng sanh cầu đại giác
Chứng pháp tự tại hiện thành Phật
Nay tôi cúng dường đức Như Lai
Tôi cùng vợ con chúng quyến thuộc
Vì lợi chúng sanh cầu Bồ
đề
Và cùng mười ngàn nhơn dân chúng.
Ðồng
chung qui y đấng Ðại giác ”.
Trưởng
giả tử nói kệ xong bạch đức Phật : " Bạch đức Thế Tôn! Nay tôi cùng đại
chúng đây đến trước đức Như Lai, tất cả đều
đã an
trụ Vô thượng Bồ đề. Xin đức Thế Tôn vì thương xót mà lại thuyết pháp cho
họ chẳng còn thối chuyển Vô thượng đạo. Nay tôi muốn ở chỗ Phật trồng cội
lành xin đức Thế Tôn hiện chứng cho tôi. Sẽ khiến sức thiện căn ấy làm
cho chúng sanh bình đẳng mau chứng Vô thượng Bồ đề, lại được vô lượng Phật
pháp quảng đại như đức Phật hiện nay.
Trưởng
giả tử cùng quyến thuộc và năm trăm nhạc công mười ngàn nhơn chúng nhứt
tâm đồng thanh bạch Phật : " Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi nay ở trước đức
Như lai đồng chí thành quy y với Phật, quy y với Pháp, quy y với Tăng. Xin
đức Thế Tôn ghi nhớ chúng tôi là Ưu Bà Tắc bắt đầu ngày nay nhẫn đến thọ
chung, thà bỏ thân mạng chớ chẳng bỏ tâm tin thanh tịnh quy y. Lại xin đức
thế Tôn ghi nhớ chúng tôi , bắt đầu ngày nay cho đến Bồ đề , vì Vô thượng
Bồ đề mà phát khởi tâm tăng thượng dũng mãnh. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ
cho chúng tôi, nguyện mau chứng Vô thượng Bồ đề vì các chúng sanh tuyên
nói chánh pháp như đức Phật hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi nhớ cho
chúng tôi, nguyện đời sau lúc thành Phật, đại chúng vây quanh như Phật
hiện nay. Lại xin đức Thế Tôn ghi
nhớ cho
chúng tôi, nguyện đời sau độ thoát vô lượng chúng sanh khổ bức như Phật
hiện nay.
Phát thệ
xong, Trưởng giả tử cùng đại chúng và các nhạc công lại đem các thứ âm
nhạc vi diệu cúng dường đức Phật
Vì thương
đại chúng ấy nên đức Phật bay lên hư không ngồi kiết già. Năm trăm nhạc
công thấy Phật hiện thần biến càng sanh tín tâm đối với đức Phật. Do oai
lực của Phật, các nhạc khí chẳng cần nhiếp trì tự nhiên bay vọt lên hư
không trỗi các bản nhạc âm thanh hữu nhiễu đức Như Lai.
Thấy thần
biến ấy, Trưởng giả tử và đại chúng đều cho là chưa từng có vui mừng hớn
hở , đồng chấp tay kính lễ đức Như Lai.
Bấy giờ trên hư không giáp vòng
đúng một do tuần lại có vô lượng trăm ngàn nhạc khí tự nhiên hiện ra như ổ
ong treo lơ lửng không ai cầm giữ , nhạc khí ấy đồng hòa tấu âm điệu vi
diệu.
Trưởng giả tử cùng quyến thuộc, năm
trăm nhạc công, mười ngàn người thành Vương Xá, vá pháp hội đại chúng sáu
mươi ngàn người, chư Tỳ kheo ngàn hai trăm năm mươi người,
do oai lực Phật
đều bay vọt lên hư không. Lại do thần lực của Phật, trên hư không hiện ra
năm trăm nhạc đài, trong đài ấy đều nói diệu pháp. Lại có bốn đài nhạc lớn
hiện trước Phật trang nghiêm điêu sức đẹp lạ khác thế gian. Lại có vô
lượng trăm ngàn câu chi chư Thiên chúng đứng trên không rải hoa mạn đà la
trên đức Phật. Do thần lực của Phật, hoa ấy ở trên không hóa thành tám vạn
đài báu cao đẹp. Ðại chúng thấy trong đài trên ấy có những trang nghiêm
rộng lớn như vậy, nên đối với đức Như Lai càng thêm sanh lòng tin mến kính
khen chưa từng có.
Ðức Thế Tôn biết đại chúng tâm tưởng
thanh tịnh, lại biết rõ Trưởng giả tử Na La Ðạt Ða và chúng mới đến có ý
nguyện thanh tịnh rồi , đức Phật hiện mĩm cười, nơi điện môn của đức Phật
phóng ra vô lượng tia sáng báu đẹp chiếu suốt mười phương vô lượng chư
Phật quốc độ rộng làm Phật sự rồi quay về nhập vào đảnh đức Phật.
Trưởng lão A Nan liền trịch y vai hữu
hướng Phật chấp tay cung kính làm lễ bạch đức Phật : " Bạch dức Thế Tôn !
Có nhơn duyên gì mà đức Phật hiện mĩm cười ? Tôi nghĩ rằng đức Như Lai
hiện thần biến tất có nhơn duyên ”.
Ðức Phật phán dạy : " Nầy A Nan !
Trưởng giả tử Na La Ðạt Ða và vợ con trai con gái tôi trai tớ gái, ba mươi
sáu người nầy do sức thiện căn cúng dường Phật, đời tương lai trải ngàn
câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo mà qua lại sanh trong trời người hưởng thọ
khoái lạc. Qua khỏi kiếp ấy gặp Phật Thương Chủ xuất thế đủ mười đức hiệu.
Ở nơi đức Phật ấy họ cúng dường cung kính tôn trọng tán thán rộng tu phạm
hạnh. Sau đó trải qua hai mươi câu chi kiếp chẳng đọa ác đạo.
Nầy A Nan ! Bảy người vợ bảy con
gái và bảy tớ gái của Trưởng giả tử ấy từ thân nầy mạng chung bèn bỏ thân
gái được thành thân nam tử hằng chẳng rời Na La Ðạt Ða cùng tu Bồ Tát đạo,
đời đương lai đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề.
Na La Ðạt Ða đại Bồ Tát thành Phật
hiệu Bình Ðẳng Tâm Như Lai đủ mười đức hiệu . Tất cả quyến thuộc sẽ thành
Phật đều đồng hiệu A Nhã Mạt Nhã Như lai đủ mười đức hiệu. Năm trăm nhạc
công đời sau trải vô số kiếp chẳng đọa ác đạo, lại trải qua làm dực tùng
mãn ngàn câu chi Chuyển Luân Vương , Ðại lược mà nói, năm trăm nhạc công
nầy ở trong kiếp ấy gặp mười ngàn đức Phật đều được gần gũi cúng dường
không sót, sau đó đồng ở trong một kiếp thành Vô thượng Bồ đề đều hiệu Mỹ
Âm Như Lai đủ mười đức hiệu. Mười ngàn người thành Vương Xá đây do sức
thiện căn cúng dường Phật. Bốn trăm nguời trong số đó sẽ gặp Từ Thị Như
Lai và đều tu phạm hạnh được lậu tận mà nhập Niết bàn. Số người còn lại
trải qua số kiếp hằng sa chẳng đọa ác đạo, lần lược được gặp ngàn câu chi
đức Phật và rộng tu Bồ Tát hạnh, sau đó tất cả được thành Vô thượng Bồ đề
đều đồng một hiệu Thậm Hi Hữu Như Lai đủ mười đức hiệu.
Nầy A Nan ! Trong chúng hội sáu
vạn đây có một ngàn người sau khi ta diệt độ chánh pháp đã hết, lại qua
khỏi kiếp đao binh . Từ Thị Như Lai chưa xuất thế , thời kỳ chúng sanh thọ
mạng lần tăng trưởng, Thiện Bộ Châu có tám vạn Ðộc Giác xuất thế, ngàn
người ấy đều được gặp và cúng dường tu pháp lành, sau đó gặp Từ Thị Như
Lai và cúng dường , sau đó trải qua hai mươi lăm câu chi kiếp chẳng đọa ác
đạo, thân tối hậu làm người do sức thiện căn phát khởi tỉnh ngộ lòng tin
thanh tịnh xuất gia chứng ngộ Duyên Giác Bồ đề. Trong đại chúng ấy có mười
ngàn người phát sanh thành kiến , ngoài ra đồng phát
tâm Vô thượng Bồ đề. Lại còn có sáu mươi na do tha Thiên Tử xa trần rời
cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh đối với các pháp.
Nầy A Nan! Có ai được thấy thắng
lợi đặc biệt nầy mà chẳng phát khởi lòng tin thanh tịnh mến ưa cung kính
phát tâm hi hữu đối với đức Như Lai. Chỉ trừ người ngu si bất tiếu . Tại
sao ? Vì những đại chúng ấy ở nơi đức Như Lai chỉ tu căn lành nhỏ mà được
lợi ích lớn như vậy, hoặc lại chứng nhập Vô thượng Bồ đề”.
Ðức Thế Tôn muốn tuyên lại nghiã
ấy mà nói kệ rằng :
"Ở chỗ Phật tu những cúng dường
Ðược công đức thù thắng như đây
Nếu có mong cầu quả cao lớn
Nên cúng dường chư đại Ðạo Sư
Hoặc Phật hiện tại tu cúng dường
Hoặc thời kỳ Phật đã Niết bàn
Cúng dường Xá Lợi như hột cải
Thường được hầu kề chư Như Lai
Nếu lại muốn tu các cúng dường
Như Lai ở đời hoặc Niết bàn
Cúng dường Xá lợi như hột cải
Hành tâm bình đẳng quả bình đẳng
Nếu người có tu tâm bình đẳng
Cúng dường đấng thượng trong bình
đẳng
Sẽ thành báo thù thắng bình đẳng
Và chứng diệu Bồ đề bình đẳng
Nếu người muốn nhiếp các thiện đạo
Ngăn chướng trừ tuyệt các ác đạo
Và muốn xu hướng đường Niết Bàn
Sẽ được như vậy chẳng là khó
Phật có đủ thi la thanh tịnh
Phật có đủ tam muội thanh tịnh
Người sanh lòng tin thắng thanh
tịnh
Sẽ được quả Như Lai tối thắng
Nếu tu tối thắng các cúng dường
Mau lên thiện đạo tối thù thắng
Và chứng chánh kiến đấng tối thắng
Tuyên nói pháp vi diệu tối thắng
Nếu thích làm người trí sáng suốt
Thân trì Phật chánh pháp thanh
tịnh
Nên tu nguyện muốn chánh mãnh lợi
Ða văn như lý chánh tư duy
Có người được làm Chuyển Luân
Vương
Hoặc làm Ðế Thích Phạm Thiên Vương
Rộng tu vô lượng thắng công đức
Quyết được
vô dư đại Niết Bàn”.
Ðức Thế Tôn nói tụng kệ xong, bảo
Trưởng lão Xá Lợi Phất: "Nếu có thiện nam tử , thiện nữ nhân an trụ Ðại
Thừa muốn mau chứng được Vô thượng Bồ Ðề, phải ở nơi pháp môn vi diệu Bồ
Tát tạng phát khởi nguyện muốn nghe học thanh tịnh mãnh lợi ân trọng,
nghe rồi thọ trì đọc tụng thông đạt nghĩa thú rộng giảng dạy mọi người.
Tại sao? Vì ở nơi kinh này mà nghe học thọ trì nhẫn đến rộng giảng dạy mọi
người thì hay khiến Tam Bảo chẳng đoạn tuyệt, thường chẳng xa rời bốn hạnh
vô lượng, thường siêng tu tập sáu Ba la mật, thường chánh phương tiện dùng
bốn nhiếp pháp nhiếp hóa chúng sanh.
Nầy Xá Lợi Phất ! Pháp môn vi diệu
Ðại thừa đại Bồ Tát tạng tức là Bồ Tát đạo, vì kinh điển này hay nhiếp trì
Vô thượng Bồ đề vậy.
Này Xá Lợi Phất ! Kinh này là
thánh trân bửu tạng của chư Bồ Tát. Ta y theo kinh này chánh tu học rồi,
cứu cánh chứng được sanh
tử dứt hẳn và chứng tất cả Ba la
mật. Do chứng như vậy nên ta hiệu là đấng Chánh đẳng Chánh Giác vô thượng.
Này Xá Lợi Phất! Ðức Như Lai ở
nơi tất cả Ba la mật đều đã cứu cánh. Ðức Như Lai ở nơi tất cả việc làm
đều đã lặng dứt. Ðức Như Lai ở nơi tất cả địa đều đã chứng được và còn
chứng được địa vô biên. Tại sao ? Do đức Phật chứng các Ba la mật ấy nên
hay cứu cánh an trụ tất cả pháp Ba la mật.
Vì thế nên chư đại Bồ tát phải ở
nơi pháp môn vi diệu đại Bồ tát tạng này mà tinh tấn tu hành như chỗ Phật
đã chứng được”.
Ðức Thế Tôn nói kệ rằng:
"Nơi nghiệp phải biết nghiệp
Nơi báo phải biết báo
Không nghiệp cũng không báo
Là Niết bàn an ổn
Các hữu vi đều khổ
Trong ấy không có trí
Thế nên trí sanh rồi
Hữu vi đều
giải thoát”.
Ðức Thế Tôn nói kệ xong, Trưởng
Lảo Xá Lợi Phất và các Tỳ Kheo, cùng Thiên Nhơn Bát Bộ tất cả đại chúng
nghe lời Phật nói đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.
Pháp hội Bồ tát tạng thứ mười hai
HẾT TẬP III
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|