Vào lúc bấy giờ, ở trong đại hội, Đại biện tài thiên nữ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, có vị pháp sư nào giảng nói kinh Ánh sáng hoàng kim này thì con sẽ tăng thêm trí tuệ cho vị ấy, làm cho vị ấy toàn hảo sự hùng biện đầy nghiêm chỉnh và thuyết phục. Vị pháp sư ấy nếu quên mất văn chữ nào trong kinh Ánh sáng hoàng kim thì con làm cho nhớ lại, khéo léo mở mắt và thức tỉnh cho người. Con lại cho vị ấy minh chú để vị ấy được sự tổng trì thông suốt. Lại nữa, kinh Ánh sáng hoàng kim này được thường xuyên thọ trì bởi những người đã gieo trồng thiện căn nơi hàng trăm hàng ngàn chư vị Thế tôn, nên quảng bá trong đại lục Thiểm bộ mà không ẩn mất mau chóng, giúp cho những ai lắng nghe kinh này thì được sự hùng biện lanh lợi khó nghĩ khó bàn; được đại trí vô tận, khéo hiểu các loại luận thuyết và kyՠthuật; được mau thoát sinh tử, đạt đến vô thượng bồ đề; và hiện tại thì được tăng thêm thọ lượng, đời sống đầy đủ. Bạch đức Thế tôn, con sẽ nói cho vị pháp sư thọ trì quảng bá kinh này, và những ai ưa thích lắng nghe kinh này, về cách tắm rửa nước thuốc, để những người ấy nếu có tai biến sao dữ, nếu lúc mới sinh có sự xung khắc với ngôi sao sở thuộc, nếu có cái khổ của những bịnh truyền nhiễm, của chiến tranh, của ác mộng, ác thần, sâu cổ, quỉ mị, ác chú, quỉ khởi thi, có những điều dữ như vậy làm chướng nạn thì được loại trừ cả. Cách ấy là những người có trí hãy tắm rửa như thế này. Hãy dùng ba mươi hai loại hương dược (67) sau đây, cân lượng bằng nhau:
(1) xương bồ, (2) ngưu hoàng, (3) mục túc hương, (4) xạ hương, (5) hùng hoàng, (6) hợp hôn thọ, (7) bạch cập, (8) khung cùng, (9) câu kỷ căn, (10) tùng chi, (11) quế bì, (12) hương phụ tử, (13) trầm hương, (14) chiên đàn, (15) linh lăng hương, (16) đinh tử, (17) uất kim, (18) bà luật cao, (19) vi hương, (20) trúc hoàng, (21) tế đậu khấu, (22) cam tùng, (23) hoắc hương, (24) mao căn hương, (25) sất chi, (26) ngải nạp, (27) an tức hương, (28) giới tử, (29) mã cân, (30) long hoa tu, (31) bạch giao, (32) thanh mộc
Lấy ngày sao Bố sái (68) mà giã, rây lấy bột, và chú nguyện bằng một trăm lẻ tám biến minh chú này: Tát da tha, su kri ti, kri ti, kri ti, ka ma ta lê, jăn ka ra ti, u ka ra ti, in dra ja li ni, sát a ran tê, va cha chi lê, a ban ti, ka si kê na, ku đu, ku đu, kha ka vi lê, ka pi lê, ka pi lê, ka pi la ma ti, si la ma ti, săn đi đu ra ma ti, pa ba, ka, bam chi lê, Si rê, Si lê, sa ti dát thi tê, soa ha. (Tadyatha sukrti krti krti kamatale jankarati ukarati indrajanili sakarante vacacile abanti kasikena kudu kudu khakavile kapile kapile kapilamati silamati sandhiduramati paba ka bhamcile Sire Sile satyasthite svaha).
(1) Khi muốn đúng cách tắm rửa theo phép, thì làm đàn tràng vuông tám khuỷu tay, nơi chỗ tĩnh lặng và phải yên ổn, tại đó chú tâm vào điều nguyện cầu. (2) Đàn ấy phải dùng ngưu phấn (69) tráng nền, phía trên rải khắp bông hoa nhiều màu. Rồi dùng khí mãnh bạc vàng tinh khiết đựng đầy mĩ vị hay sữa hoặc mật. (3) Bốn phía đàn tràng hay là bốn cửa, hãy đặt bốn người giữ gìn đúng phép. Nhờ bốn đồng tử (70) phục sức trang nghiêm, mỗi người một góc tay bưng bình nước. (4) Thế rồi thường xuyên đốt an tức hương, và nhạc ngũ âm (71) không hề ngớt tiếng Phan lọng nghiêm chỉnh, lại treo lụa màu, trang hoàng bốn phía của đàn tràng ấy. (5) Ở trong đàn tràng thì đặt gương sáng, dao sắc kèm tên mỗi loại bốn cái. Chính giữa đàn tràng vùi cái bồn lớn, với ván xoi lỗ đặt ở phía trên. (6) Đem bột hương dược hòa với nước nóng, và cũng đặt để ở trong đàn tràng. Thiết trí như vậy xong xuôi cả rồi, sau đó tụng chú kiết giới đàn tràng.
Minh chú kiết giới đàn tràng như vầy: Tát da tha, ăn ra kê, na da nê, hi lê, mi lê, gi lê, ki ki lê, soa ha (Tadyatha anrake nayane hile mile gile kikite svaha).
(7) Kiết giới như vậy cho đàn tràng rồi, sau đó mới vào nơi trong đàn tràng, chú nguyện nước [bình] hai mươi mốt biến, rồi rưới khắp cả bốn phía đàn ấy. (8) Kế đó chú nguyện nước nóng hương dược cho đủ số lượng một trăm tám biến, rồi bốn phía đàn dùng màn mà che, và rồi tắm rửa cho cả thân thể.
Minh chú chú nguyện cho nước [bình] và nước nóng hương dược như vầy: Tát da tha, su ga ti, vi ga ti, vi ga cha, va đê, soa ha. (Tadyatha sugati vigati vigaca vade svaha).
Tắm rửa rồi, nước nóng tắm rửa ấy [đã chảy xuống bồn lớn], và những cúng phẩm hiến cúng trong đàn tràng, đều đem bỏ trong sông trong hồ. Ngoài ra thì thu dọn lại. Tắm rửa rồi mới mặc đồ sạch. Khi ra đàn tràng mà vào tịnh thất, thì vị thầy chú nguyện phải dạy cho người ấy cách phát đại nguyện nhắm vào sự diệt ác tu thiện, vào sự phát đại bi tâm đối với chúng sinh. Chính do yếu tố phát đại nguyện này mà được bao phước báo tùy tâm. Đại biện tài thiên nữ lại nói chỉnh cú sau đây.
(9) Những người khổ sở vì các thứ bịnh, điều trị đủ cách mà không lành được, thì hãy tắm rửa đúng cách như trên, cọng thêm đọc tụng bản kinh vua này. (10) Ngày đêm ý niệm không hề tán loạn, chuyên tâm thiết tha và rất tin tưởng, thì bao bịnh hoạn được tiêu tan cả, lại hết nghèo khó có đủ tài sản. (11) Tinh tú bốn hướng cùng với nhật nguyệt thần lực hộ vệ cho được nhiều tuổi, cát tường yên ổn phước đức tăng thêm, tai biến ách nạn đều loại trừ cả.
Sau khi [phát đại nguyện], hãy tụng minh chú hộ trì thân thể sau đây, hai mươi mốt biến: Tát da tha, săm mê, vi săm mê, soa ha; su ga tê, vi ga tê, soa ha. Vi ga ta, va ti, soa ha; Sà ga ra săm bút đa da, soa ha; si kăn đa, ma ta da, soa ha; ni la kăn ta da, soa ha; a pa ra ji ta, via da da, soa ha; hi ma van ta da, soa ha; a ni mi la vát ta da, soa ha; nam mô, ba ga va tê, Brắt, ma ni, soa ha; nam mô, Sa rát va ti, ma ha, đev dê, soa ha; sít dăn tu, măm, măn tra pa đa, soa ha; đa ra ta, va chi tô, Brắt ma nu, ma nô ra, soa ha. (Tadyatha samme visamme svaha; sugate vigate svaha. Vigata vati svaha; Sagarasambudhaya svaha; skanda mataya svaha; nilakantaya svaha; aparajita viryaya svaha; himavantaya svaha; animilavaktaya svaha; namo bhagavate Brah mani svaha; namo Sarasvati maha devye svaha; siddyantu mam mantrapada svaha ; dharata vacito Brahmanu manora svaha).
Đại biện tài thiên nữ nói về cách tắm, về đàn tràng, và về minh chú rồi, bước tới lạy ngang chân đức Thế tôn mà thưa, bạch đức Thế tôn, trong bốn bộ đệ tử đức Thế tôn có ai thọ trì đọc tụng sao chép lưu hành bản kinh vua nhiệm mầu này và tu hành đúng như kinh dạy, thì ở thành thị, thôn xóm, đồng nội, núi rừng, trú xứ tăng ni, bất cứ ở đâu con cũng vì họ mà đem tùy thuộc, tấu thiên nhạc, cùng đến chỗ ấy mà hộ vệ, loại trừ bịnh khổ, sao sa, quái tượng, truyền nhiễm, chinh chiến, tù đày, ác mộng, ác thần, cổ đạo, thuật ếm, những chướng nạn như vậy đều bị trấn áp mà ích lợi cho người trì kinh. Chúng con lại giúp cho bốn đệ tử đức Thế tôn, và những người lắng nghe kinh này, ai cũng mau chóng vượt qua biển cả sinh tử, không còn thoái chuyển vô thượng bồ đề.
Bấy giờ đức Thế tôn nghe Đại biện tài thiên nữ trình bày như vậy thì khen rằng, lành thay thiên nữ, thiên nữ có thể lợi ích cho bao nhiêu chúng sinh, bằng cách nói về minh chú, về nước thơm và đàn tràng như vậy. Phước báo của thiên nữ thật khó nghĩ thấu. Thiên nữ nên hộ trì bản kinh vua tối thượng, đừng để mai một mà được lưu hành mãi. Đại biện tài thiên nữ, lúc ấy, lạy ngang chân đức Thế tôn rồi trở về chỗ cũ.
Bấy giờ vị Bà la môn họ Kiều trần như, tên Pháp sư thọ ký, vâng theo uy lực của đức Thế tôn, đứng trước đại hội mà tán dương Đại biện tài thiên nữ.
(12) Biện tài thiên nữ thông minh tinh tiến, người trời hiến cúng đáng nên tiếp nhận, danh vang thế giới tràn khắp mọi nơi, ban cho ước nguyện của bao chúng sinh. (13) Trên đỉnh núi cao nơi rất siêu việt, lợp tranh làm phòng mà ở trong đó, bện những cỏ mềm mà làm áo mặc, bất cứ ở đâu thường kiễng một chân. (14) Vậy mà chư thiên thường đến tụ tập cùng nhau một lòng tán dương thỉnh cầu. Kính xin thiên nữ bậc đại hùng biện, hãy cho mọi người lời tiếng vi diệu.
Đại biện tài thiên nữ liền chấp nhận thỉnh cầu mà tuyên thuyết minh chú sau đây: Tát da tha, mi ri, chi ô rê, a va tê, a va jê va ti, hin gu lê, min gu lê, pin ga lê va ti, ăn khu sa, ma ri chi dê, sặm ma ti, vi sặm ma ti, a gra ti, mắc khi dê, ta ra chi, ta ra chi va ti, chia si, chi ri, si ri mi ri, ma nan đi, đa ma khê, ma ri chi dê, pra na pa ri dê, lô ka ji dết tha, lô ka, si nết thi, lô ka via dê, sít đa, pa ra tê, bi ma mu khi, su chi cha ri, a pra ti ha tê, a pra ti ha ta bút đi, na mút chi, na mu chi, ma ha đếp dê, pra ti, gra ha, na mát ka ra, ma ma, bút đi, đa sa hi, bút đi, a pra ti ha ta, ba va tu, si ra ha mê, vi sút đa, chi tô, sát tra si lô ka, măn tra, pi ta ka, ka pi da đi sô, tát da tha, ma ha pra ba va, hi li, mi li, vi cha ra tu, vi bút đi, ma ma, bút đi, sút đi, ba ga vát ti dê, đê vê dăm, Sa rát va tim, ka ra ti, kê du ra ma ti, hi ri, mi ri, hi ri, mi ri, a ba da, mê, ma ha đê vi, bút đa, sát dê na, đa ma, sát dê na, săn ga, sát dê na, In dra, sát dê na, Va ru na, sát dê na, dê lô ki dê sát da, sát dê na, tê săm, sát dê na, sát da va cha ni da, a ba da, mê, ma ha đê vi, hi li, mi li, hi li, mi li, vi cha ra tu, ma ma, bút đi, nô, nam mô, ba ga va ti, ma ha đê vê, Sa rát va ti da, sít đi dăn tu, măn tra, pa đa, mê, soa ha. (Tadyatha miri cyore avate avajevati hingule mingule pingalevati ankhusa maricye sammati visammati agrati makhye taraci taracivati cirsi ciri sirimiri manandhi damakhe maricye pranaparye lokajyestha loka snesthi lokavirye siddha parate bhimamukhi sucicari apratihate apratihatabuddhi namuci namuci mahadevye prati graha namaskara mama buddhi darsahi buddhi apratihata bhavatu sirahame visuddha cito sastrasloka mantra pitaka kapiyadiso tadyatha mahaprabhava hili mili vicaratu vibuddhi mama buddhi suddhi bhagavatye deveyam Sarasvatim karati keyuramati hiri miri hiri miri abhaya me mahadevi buddha satyena dharma satyena sangha satyena Indra satyena Varuna satyena yelokyesatya satyena tesam satyena satyavacaniya abhaya me mahadevi hili mili hili mili vicaratu mama buddhi no namo bhagavati mahadeve Sarasvatya siddhiyantu mantra pada me svaha).
Đại biện tài thiên nữ tuyên thuyết minh chú như vậy rồi, nói với Bà la môn, rằng lành thay đại nhân, ông có thể vì những người cầu sự hùng biện nhiệm mầu, cầu châu ngọc, cầu thần thông trí tuệ, để lợi ích tất cả và mau chứng bồ đề, thì nên biết cách thức thọ trì minh chú nói trên. Đại biện tài thiên nữ tức thì nói những lời chỉnh cú sau đây.
(15) Trì minh chú này trước phải thuộc lòng sao cho thuần thục không sai không sót. Kế đó qui kính Tam bảo chư thiên, cầu xin da trì ước nguyện tùy tâm. (16) Kính lạy Phật bảo cùng với Pháp bảo Tăng bảo Bồ tát Độc giác Thanh văn, kế lạy Phạn vương cùng với Đế thích bốn vị Thiên vương hộ vệ thế giới. (17) Đối với những vị thường tu phạn hạnh, thì hết lòng thành thiết tha kính lạy. Hãy ở lan nhã yên tĩnh yên ổn mà tụng lớn tiếng minh chú nói trên. (18) Trước tượng Thế tôn và trước thiên long, tùy mình có gì thì đem hiến cúng. Đối với hết thảy bao loại chúng sinh tâm hãy nổi dậy từ bi thương cảm. (19) Thế tôn tướng tốt thân màu vàng tía, tập trung tâm tưởng vào tướng tốt ấy. Thế tôn da trì tuyên thuyết giáo pháp cho người thích hợp tu tập thiền định. (20) Khéo nghĩ chữ nghĩa của giáo pháp ấy, lại theo nghĩa Không tu tập chính xác. Hãy ngồi ở trước hình tượng Thế tôn nhất tâm chánh niệm về giáo pháp Ngài. (21) Thế thì thực hiện Diệu trí tam muội, lại còn thực hiện tổng trì tối thắng. Miệng vàng Thế tôn tuyên thuyết giáo pháp, tiếng mầu thuần hóa chư thiên nhân loại. (22) Tướng lưỡi tùy cơ biểu hiện hiếm có rộng dài bao trùm đại thiên thế giới ; tiếng mầu lưỡi ấy của đức Thế tôn chí thành nhớ lấy lòng không nghi ngại. (23) Thế tôn do sự phát nguyện rộng lớn, nên được tướng lưỡi bất khả tư nghị, tuyên thuyết các pháp toàn là phi hữu, tựa như không gian không có vướng mắc. (24) Â thanh, trường thiệt của đức Thế tôn, tư duy hai tướng thì thỏa nguyện cầu. Thấy ai hiến cúng Đại biện thiên nữ, hoặc thấy đệ tử theo lời thầy dạy, (25) truyền cho mật pháp bảo nên tu học, trân trọng thiết tha nguyện gì cũng thành. Muốn thực hiện được trí giác tối thượng, thì phải nhất tâm trì mật pháp ấy. (26) Tăng trưởng tư lương phước đức trí tuệ, quyết định thành tựu đừng có nghi hoặc; cầu mong tài sản được lắm tài sản, cầu mong danh vọng được danh vọng tốt. (27) Cầu nguyện giải thoát thì được giải thoát, quyết định thành tựu đừng có nghi hoặc. Thành tựu công đức vô lượng vô biên, toàn đúng ước nguyện nội tâm người cầu. (28) Nếu có khả năng y thế tu hành thì được thành tựu đừng có nghi hoặc. (29) Nên chọn chỗ sạch và mặc đồ sạch, mà làm đàn tràng lớn nhỏ tùy ý. Dùng bốn bình sạch mà đựng mĩ vị, cùng với hương hoa hiến cúng tùy lúc. (30) Giăng treo lụa màu tràng phan bảo cái, bôi rải khắp cả bằng bột hương liệu, hiến cúng Thế tôn và Biện tài thiên, cầu thấy thiên thân cũng được toại nguyện. (31) Hai mươi mốt ngày tụng minh chú trên, bằng cách đối trước tượng Biện tài thiên. Nếu chưa thấy được thân Biện tài thiên, thì nên dụng tâm thêm chín ngày nữa. (32) Mà nửa đêm sau vẫn chưa thấy được, thì nên tìm chỗ thanh tịnh đẹp hơn, rồi vẽ đúng cách tượng Biện tài thiên, hiến cúng trì tụng chứ không xả bỏ. (33) Cả ngày liền đêm không hề biếng nhác, sẽ được vô cùng tự lợi lợi tha. Đem kết quả ấy hồi hướng chúng sinh, thì cầu nguyện gì cũng thành tựu cả. (34) Nếu chưa toại ý thì phải ba tháng, sáu tháng chín tháng cho đến một năm, thiết tha thỉnh cầu lòng không dao động, thì được thiên nhãn được tha tâm thông.
Bà la môn Kiều trần như nghe Đại biện tài thiên nữ nói như vậy thì hoan hỷ, phấn chấn, khen chưa từng có. Ông thưa đại hội mà nói như vầy, tất cả đại hội nhân loại chư thiên nên biết và nghe cho, tôi lại muốn theo phép thế đế mà tán dương Đại biện tài thiên nữ. Ông liền nói những chỉnh cú sau đây.
(35) Kính lạy Thiên nữ bậc đại dũng mãnh và đại tự tại trong thế giới này; nay tôi tán dương bậc tôn cao ấy, với lời tựa như lời tiên nhân xưa. (36) Cát tường hoàn thiện tâm trí thanh thoát, thông minh tàm quí có danh tiếng lớn. Là bậc mẹ sinh của cả thế giới, dũng mãnh thường hành sự đại tinh tiến. (37) Ở trong quân trận chiến đấu thường thắng, giáo dục thuần hóa từ bi nhẫn nhục. Hiện làm chị cả của Diêm la vương, mà thường mặc áo kén tằm hoang xanh. (38) Dung nhan khi đẹp khi thì xấu xí, xấu thì mắt nhìn đã làm khiếp sợ. Nhiều việc đặc thù vượt trên thế giới, những ai tin tưởng thì thu nhận cả. (39) Hoặc ở hang núi chỗ sâu và hiểm, hoặc ở hầm sâu hay ở bên sông, hoặc ở đại thụ hay ở lùm cây, Thiên nữ phần nhiều cư trú như vậy. (40) Giả sử những người rừng núi hoang dã, mà thường hiến cúng đối với Thiên nữ, lấy những lông công mà làm phan cờ, thì cũng thường được Thiên nữ hộ trì. (41) Sư tử cọp beo thường thường vây quanh, bò dê gà trĩ cũng thường nương tựa. Rung cái linh lớn âm thanh phát ra, chúng núi Tân đà cũng nghe âm vang. (42) Hoặc cầm cái kích, đầu tóc búi tròn, và tay thường cầm tinh kỳ nhật nguyệt. Ngày chín, mười một của tháng trăng tối (72) lúc ấy thì nên hiến cúng Thiên nữ. (43) Hiện làm em gái Bà tô đại thiên, thấy có chiến tranh lòng đầy thương xót. Quan sát tất cả bao loại chúng sinh, thấy không có ai hơn được Thiên nữ. (44) Lại hiện nữ nhân Mục ngưu hoan hỷ, chiến với chư thiên thường thường đắc thắng. Có thể sống lâu ở trong cuộc đời, khi thì hòa nhẫn khi thì bạo ác. (45) Bốn loại minh luận của Bà la môn, trong có biến hóa, đều tinh thông cả. Là tự tại nhất trong chúng thiên tiên, tạo ra hạt giống cùng với đất đai. (46) Khi các thiên nữ tụ tập với nhau, Thiên nữ ứng đến y như thủy triều (73) . Với các bộ loại long thần dược xoa, thì làm cầm đầu thuần hóa được cả. (47) Phạn hạnh Thiên nữ hơn mọi nữ nhân. Nói thật, y như chúa tể thế giới. Trong giới vua chúa thì như hoa sen. Sông mê bến khổ thì làm cầu, thuyền. (48) Khuôn mặt thì giống mặt trăng tròn đầy. Đa văn toàn hảo là nơi nương tựa. Hùng biện nổi bật in như núi cao. Ai tưởng niệm đến thì làm cồn, bãi (74) . (49) Bộ loại tu la cùng với chư thiên, ai cũng tán dương công đức Thiên nữ. Ngay như Đế thích với cả ngàn mắt, cũng nhìn với lòng kính trọng nồng hậu. (50) Chúng sinh nếu có mong cầu những gì, thì làm cho họ thành đạt mau chóng. Giúp kẻ hùng biện toàn hảo nghe nhớ. Là kẻ hơn hết giữ cho địa cầu. (51) Ở trong thế giới khắp cả mười phương, làm ánh đèn lớn chiếu soi thường xuyên. Cho đến quỉ thần cùng với cầm thú cũng toại nguyện cho những gì chúng cầu. (52) Trong mọi nữ nhân, như đỉnh núi cao. Sống lâu ở đời như tiên nhân xưa. Thường xuyên ly dục như Thiếu nữ thiên. Lời nói chân thành như Đại thế chúa. (53) Nhìn khắp thế giới chủng loại khác nhau, cho đến chư thiên của cả Dục giới, chỉ thấy Thiên nữ đáng xưng tôn quí, không thấy có ai hơn được Thiên nữ. (54) Những ai kinh hoàng ở trong chiến trận, những ai sa vào ở trong hố lửa, sông ngòi hiểm nạn và gặp đạo tặc, thì được làm cho hết cả sợ hãi. (55) Ai bị phép vua bắt bớ cùm kẹp, ai bị oán thù muốn giết muốn hại, mà nhớ Thiên nữ lòng không dao động, quyết định thoát được mọi nỗi lo sợ. (56) Người hiền kẻ dữ đều giúp đỡ cả, ý niệm từ bi thường ở trước mắt. Thế nên nay tôi đem lòng chân thành kính lạy ngưỡng vọng Đại biện thiên nữ.
Bà la môn, lúc ấy, lại chú tán (75) Đại biện tài thiên nữ như sau:
(57) Tôi kính lạy bậc tôn quí trong đời, là mẹ hơn hết tất cả bà mẹ. Ba loại thế giới (76) đều hiến cúng cả. Mặt và dáng dấp ai cũng thích nhìn. (58) Diệu đức đa dạng trang sức thân thể. Mắt như cánh sen xanh mà lớn dài. Ánh sáng phước trí nổi tiếng khắp nơi, tựa như ngọc quí như ý vô giá. (59) Tôi nay ca tụng một bậc siêu việt, bậc làm thành tựu cho sự mong cầu, bậc diệu cát tường chân thật công đức, bậc như hoa sen rất ư thanh khiết. (60) Thân sắc uy nghiêm ai cũng thích nhìn. Tướng tốt hiếm có không thể nghĩ bàn. Phóng ra ánh sáng trí tuệ trong sạch. Ý niệm hơn hết trong mọi ý niệm. (61) Ví như sư tử nhất trong loài thú, thường có tám tay tự trang hoàng mình: cầm cung, cầm tên cầm đao, giáo, búa, chày, bánh xe sắt, cùng với dây buộc. (62) Đẹp đẽ thích nhìn tựa như trăng tròn. Nói năng thông suốt mà lại hòa nhã. Những ai trong lòng cầu nguyện những gì, bậc Thiện sĩ này tùy niệm thỏa mãn. (63) Đế thích, chư thiên đều kính trọng cả, đều cùng tán dương là nơi nương tựa. Công đức xuất sinh thật khó nghĩ bàn, trong mọi thì gian tôi khởi cung kính Soa ha (svaha) (77) . (64) Ai muốn cầu đảo Đại biện thiên nữ, hãy y lời chữ bài chú tán này, hôm sớm tinh khiết chí thành mà tụng, thì điều cầu nguyện ứng nghiệm tùy tâm.
Bấy giờ đức Thế tôn bảo Bà la môn, lành thay, ông có thể lợi ích chúng sinh như vậy, ban cho họ yên vui, bằng cách tán dương Đại biện tài thiên nữ, thỉnh cầu da hộ, được phước vô biên (78) .
Bà la môn Kiều trần như nói những chỉnh cú tán dương và chú tán Đại biện tài thiên nữ rồi, lại nói với đại hội, thưa các vị, nếu muốn thỉnh cầu Đại biện tài thiên nữ từ mẫn da hộ, để hiện tại được hùng biện vô ngại, đại trí thông minh, ngôn ngữ tuyệt diệu, bác học kỳ tài, thảo luận văn hoa, tùy ý hoàn thành mà không ngưng trệ, thì nên làm như thế này. Trước hết chí thành thiết tha mà triệu thỉnh
Nam mô Phật đà da, Nam mô Đạt ma da, Nam mô Tăng dà da, Kính lạy chư vị Bồ tát, Kính lạy chư vị Độc giác, Kính lạy chư vị Thanh văn, Kính lạy chư vị Hiền thánh.
Chư vị Thế tôn quá khứ hiện tại đã tập lời nói chân thật, lời nói tùy thuận, lời nói hợp thời cơ, lời nói không lừa dối. Chư vị Thế tôn trong vô lượng đại kiếp thường xuyên nói chắc chắn. Nói chắc chắn thì ai cũng tùy hỷ. Vì không vọng ngữ nên quảng trường thiệt tướng xuất ra thì khắp cả khuôn mặt, khắp cả đại lục Thiệm bộ và ba đại lục khác, khắp một ngàn cho đến ba ngàn thế giới, khắp mười phương thế giới, phủ khắp tất cả một cách bất khả tư nghị, loại trừ nhiệt lực cao độ của phiền não. Kính lạy kính lạy quảng trường thiệt tướng như vậy của chư vị Thế tôn, nguyện con thành tựu hùng biện nhiệm mầu. Con xin chí tâm kính lạy
(65) Kính lạy sự hùng biện của chư vị Thế tôn. Kính lạy sự hùng biện của chư vị Bồ tát. Kính lạy sự hùng biện của chư vị Độc giác. Kính lạy sự hùng biện của chư vị Thanh văn. (66) Kính lạy sự hùng biện của tiếng nói tứ đế. Kính lạy sự hùng biện của chánh hành chánh kiến. Kính lạy sự hùng biện của Phạn thiên, chư tiên. Kính lạy sự hùng biện của Ô ma đại thiên. (67) Kính lạy sự hùng biện của Tắc kiến đà thiên. Kính lạy sự hùng biện của Ma na tư vương. Kính lạy sự hùng biện của Thông minh dạ thiên. Kính lạy sự hùng biện của bốn Đại thiên vương. (68) Kính lạy sự hùng biện của Thiện trú thiên tử. Kính lạy sự hùng biện của Kim cang mật chủ. Kính lạy sự hùng biện của Phệ sốt nộ thiên. Kính lạy sự hùng biện của Tì ma thiên nữ. (69) Kính lạy sự hùng biện của Thị số thiên thần. Kính lạy sự hùng biện của Thất thị mạt đa. Kính lạy sự hùng biện của lời tiếng Hê lị. (70) Kính lạy sự hùng biện của Mẹ lớn các mẹ. Kính lạy sự hùng biện quỉ mẫu Ha rị để. Kính lạy sự hùng biện của chư thần Dược xoa. Kính lạy sự hùng biện của chư vương mười phương(79) . (71) Có bao nhiêu thắng nghiệp xin giúp đỡ cho con, làm cho con thực hiện sự hùng biện nhiệm mầu. (72) Con xin kính lạy bậc không dối trá. Con xin kính lạy bậc đã giải thoát. Con xin kính lạy bậc đã ly dục. Con xin kính lạy bậc hết triền cái (80) . (73) Con xin kính lạy bậc tâm thanh tịnh. Con xin kính lạy bậc đầy ánh sáng. Con xin kính lạy bậc nói chân thật. Con xin kính lạy bậc hết trần tập (81) . (74) Con xin kính lạy bậc ở thắng nghĩa. Con xin kính lạy bậc đại chúng sinh. Con xin kính lạy Đại biện thiên nữ, hãy làm cho con lời tiếng vô ngại. (75) Cầu cho cái điều con nguyện cầu đây mau chóng thành đạt một cách toàn hảo. Cầu con vô bịnh, cầu con yên ổn, cầu con thọ lượng được kéo dài ra, (76) cầu con thể hội các lời minh chú, cầu con siêng tu các pháp giác phần, cầu con lợi lạc cho bao chúng sinh, cầu con sớm toại tâm nguyện như trên. (77) Con nói những lời chân thành chắc thật, con nói những lời không hề dối trá; cầu sự hùng biện của Đại thiên nữ giúp đỡ cho con được thành đạt cả. (78) Cầu nguyện Thiên nữ ứng đến chỗ con, làm con nói năng không bị ngưng trệ, đưa vào mau chóng trong thân miệng con sự đại thông minh hùng biện toàn hảo. (79) Cầu nguyện làm cho cái lưỡi của con sẽ được hùng biện giống đức Thế tôn, và do uy lực của hùng biện ấy mà con thuần hóa cho bao chúng sinh. (80) Lúc con xuất ra lời tiếng hùng biện, thì tùy sự việc được thành tựu cả; bởi vì người nghe sinh ra kính trọng, nên nói và làm không vô hiệu quả. (81) Nếu con cầu nguyện về sự hùng biện mà sự thể ấy không được hiệu nghiệm, thì lời chắc thật Thiên nữ đã nói sẽ toàn thành ra hư vọng tất cả. (82) Có kẻ đã làm năm tội vô gián, mà lời Thế tôn làm họ thuần hóa. Lại như các bậc thánh giả La hán nói ra những lời báo đáp ân huệ. (83) Và lời các ngài Thu tử, Mục liên, đứng đầu thánh chúng đệ tử Thế tôn. Tất cả lời nói chân thật trên đây, nguyện cầu cho con cũng được như vậy. (84) Nay con chí thành triệu thỉnh các bậc thánh chúng Thanh văn của đức Thế tôn, nguyện xin các ngài mau đến chỗ con, tác thành cho con lời nguyện cầu này. (85) Lời cầu của con là lời chân thật, lời nguyện của con là không hư dối. Trên từ chư thiên của Sắc cứu cánh, cùng với thánh giả năm nơi Tịnh cư; (86) chư vị Phạn vương chư thiên Phạn phụ cùng với tất cả chư thiên Phạn chúng; và Đại phạn vương chúa tể tự phong của cả đại thiên thế giới Sách ha, (87) cùng với tất cả chư thiên tùy thuộc; giờ này con xin triệu thỉnh tất cả, ước nguyện tất cả rủ lòng từ mẫn, thương tưởng đến con mà cùng nhiếp thọ. (88) Tha hóa tự tại, Lạc biến hóa thiên, Đỗ sư đa thiên nơi có Từ tôn; (89) chư thiên Dạ ma, chư thiên Đao lợi, cùng với chư thiên nơi bốn Thiên vương; (90) tất cả chư thần đất nước lửa gió ở núi Diệu cao tất cả chư thần bảy lớp biển cả bảy lớp núi lớn, cùng với bao nhiêu tùy thuộc của họ; (91) Mãn tài, Ngũ đỉnh (82) , nhật nguyệt tinh tú, tất cả chư thiên có cái tâm nguyện làm cho thế giới nhân loại yên ổn; (92) chư thiên chư thần không thích tạo tội; quỉ mẫu cùng với đứa con nhỏ nhất; (93) lại còn tất cả tám bộ thiên long. (94) Nay con dựa vào uy lực Thế tôn mà triệu thỉnh cả, nguyện xin từ mẫn mà giúp cho con hùng biện vô ngại. (95) Tất cả nhân loại cùng với chư thiên những vị biết được tâm nguyện của người, nguyện đem thần lực gia hộ cho con, giúp con có được hùng biện nhiệm mầu. (96) Cho đến nguyện cầu hết thảy chúng sinh cùng tận không gian khắp cả pháp giới, giúp con có được hùng biện nhiệm mầu.
Đại biện tài thiên nữ, bấy giờ, nghe lời nguyện cầu như vậy, thì nói với Bà la môn, rằng lành thay, đại nhân! Nếu thiện nam hay thiện nữ nào có thể y theo minh chú và chú tán như trước đã nói mà thọ trì đúng cách, qui kính Tam bảo, chí thành chánh niệm, thì mọi sự cầu nguyện đều không vô hiệu. Những người ấy nếu còn thọ trì đọc tụng bản kinh nhiệm mầu Ánh sáng hoàng kim này, thì mọi sở nguyện càng không vô hiệu, thành đạt mau chóng, trừ kẻ không có chí tâm. Bấy giờ Bà la môn, từ trong tâm trí sâu xa, rất là hoan hỷ, chắp tay thành kính mà vâng lời.
Đức Thế tôn bảo Đại biện tài thiên nữ, rằng lành thay, thiện nữ! Thiện nữ có thể quảng bá kinh này như vậy, hộ vệ cho những người thọ trì kinh này, và lợi ích cho chúng sinh an lạc.
Khi đức Thế tôn tuyên thuyết pháp thoại này, [kết thúc rằng] ban cho hùng biện thì bất khả tư nghị, phước được vô lượng, làm cho những người phát tâm cùng đi mau đến vô thượng bồ đề.
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|