× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Đại Bảo Tích



Phần 55 LV. Pháp Hội Hư Không Tạng Bồ Tát - Thứ 55 (6)

Thưa Sanh Nghi Đại Sĩ, các tam muội ấy hay biết rõ các pháp sở hành của tám vạn bốn ngàn loại chúng sanh, cũng hay hiển hiện tám vạn bốn ngàn pháp tụ.  Đây là lược nói Bồ Tát hạnh và phần ít pháp tạng của chư Phật.  Nhưng Bồ Tát hạnh có vô lượng vô biên và pháp tạng của chư Phật thì bất khả tư nghị vậy". 

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có một vạn sáu ngàn Bồ Tát Ðược nhu thuận nhẫn và vô lượng tam muội hiện ra.  Còn có tám vạn bốn ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề. 

Đức Thế Tôn khen rằng : «Lành thay, lành thay ! Hư Không Tạng khéo nói pháp môn tam muội ấy, khéo nói thành tựu Như Lai.  Như chính thân ông Ðược chứng Ðược hiện hành, pháp ấy chẳng từ người mà Ðược". 

Sanh Nghi Bồ Tát chắp tay hướng về Hư Không Tạng Bồ Tát mà bạch rằng : «Hi hữu Đại Sĩ có thể thành tựu công Ðức bất khả tư nghị như vậy, chẳng từ người khác mà Ðược nhập vào cảnh giới thắng trí Như Lai.  Tôi cũng nguyện thích muốn làm cho tất cả chúng sanh Ðược pháp giới Như Lai bất khả tư nghị ấy". 

Lúc bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất hỏi Sanh Nghi Bồ Tát : «Thưa Đại Sĩ !  Ai vì Ngài mà Ðặt cho tên Sanh Nghi ấy ?". 

Sanh Nghi Bồ Tát nói : «Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất !  Chính Bồ Ðề tâm Ðặt tên Sanh Nghi cho tôi.  Tại sao như vậy ?  Vì người chẳng phát Bồ Ðề tâm thì ở trong Phật pháp trọn chẳng sanh nghi.  Người mà phát tâm Vô thượng Bồ Ðề thì Ðối với tất cả Phật pháp sanh nghi hoặc, tại sao, vì người ấy muốn Ðược biết rõ hiện tiền tất cả Phật pháp. 

Ví như Thái Tử của vua Quán Đảnh Sát Đế Lợi thành tựu tướng vua Ðáng nên làm quốc vương, kế sau vua cha phải nối ngôi vua, vì vậy mà Thái Tử ấy luôn luôn thường hỏi pháp trị nước, như là tôi sẽ làm thế nào giám lãnh quốc sự.  Cũng vậy, Ðại Bồ Tát cứu cánh tâm Vô thượng Bồ Ðề, kế sau Ðức Như Lai cũng phải nối ngôi tôn quí Vô Thượng Pháp Vương, cũng luôn luôn thường suy nghĩ hỏi han những pháp tương ưng Nhứt thiết trí, như là tôi sẽ phải thế nào thọ trì pháp Phật vô thượng, vì vậy mà ở nơi Phật pháp thường sanh nghi.  Vì nhơn duyên ấy nên do nơi Bồ Ðề tâm mà lập nên tên Sanh Nghi này vậy. 

Thưa Đại Đức Xá Lợi Phất !  Tôi từ xưa Ðến nay chẳng nhớ có lúc nào gặp chư Phật, chư Bồ Tát, chư thiện tri thức mà chẳng thưa hỏi Phật pháp vi diệu, thế nên tôi chơn thiệt tên là Sanh Nghi vậy". 

Lúc bấy giờ Hư Không Tạng Ðại Bồ Tát bạch Ðức Phật : «Bạch Ðức Thế Tôn ! Cảnh giới chư Phật bất khả tư nghị, những pháp nên làm của chư Bồ Tát cũng vô lượng.  Vì vậy nên pháp hành ấy chẳng thể dùng ít thệ trang nghiêm Ðược, chẳng thể dùng ít ngôn thuyết Ðể nói Ðược, chẳng thể dùng Tiểu thừa Ðạo mà thành tựu Ðược. 

Lành thay Ðức Thế Tôn !  Ngưỡng mong Như Lai nói Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm.  Bồ Tát do Ðại thệ trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm mà có thể thừa Ðại thừa hành chơn thiệt tối thượng xuất thế Ðạo.  Vì sẽ Ðược xuất thế Đại thừa vô thượng thành tựu nhứt thiết tự nhiên Ðại trí, dầu chưa thành Nhứt thiết trí mà có thể làm Phật sự lợi ích chúng sanh ". 

Đức Phật nói : «Lành thay, lành thay !  Nầy Hư Không Tạng !  Lắng nghe lắng nghe khéo suy nghĩ Ðó, Phật sẽ vì ông mà phân biệt giải nói chư Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm thừa trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm.

 Nầy Hư Không Tạng !  Bồ Tát có hai mươi pháp trang nghiêm Ðể tự trang nghiêm, Bồ Tát trang nghiêm rồi có thể thừa Đại thừa. 

Những gì là hai mươi pháp ? 

Nếu có Bồ Tát cứu cánh phát tâm Vô thượng Bồ Ðề với tất cả chúng sanh phát tối thắng Ðại bi, sanh lòng lợi ích chúng sanh.  Sanh lòng lợi ích chúng sanh rồi thì có thể trang nghiêm vô thượng Ðại thệ. 

Sao gọi là Ðại thệ trang nghiêm ?

Vì Ðộ người chưa Ðược Ðộ mà Ðại thệ trang nghiêm ngồi ghe thuyền lớn vậy.

Vì giải rõ cho người chưa Ðược rõ mà Ðại thệ trang nghiêm thoát hư vọng Ðiên Ðảo vậy.

Vì an ổn người chưa an mà Ðại thệ trang nghiêm an ở vô úy Ðạo vậy.

Vì người chưa Ðược Niết bàn khiến họ Ðược Niết bàn mà Ðại thệ trang nghiêm xả bỏ ngũ ấm gánh nặng vậy.

Vì siêng thường cung cấp Ðủ cho chúng sanh mà Ðại thệ trang nghiêm tinh tiến chẳng giải Ðãi vậy.

Vì chẳng bỏ vô lượng sanh tử mà Ðại thệ trang nghiêm chẳng mỏi nhàm vậy.

Vì vui Ðẹp tất cả chư Phật mà Ðại thệ trang nghiêm hiện tiền cúng dường cung kính vậy.

Vì thọ trì tất cả Phật pháp mà Ðại thệ trang nghiêm chẳng dứt giống Tam bửu vậy.

Vì thọ trì chẳng quên pháp Ðược nghe mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược Ðà la ni tổng trì vậy.

Vì khéo thuyết pháp vui Ðẹp tất cả chúng sanh mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược biện tài vô ngại vậy.

Vì tập họp vô lượng công Ðức tư lương mà Ðại thệ trang nghiêm thành tựu tướng hảo vậy.

Vì vui Ðẹp tất cả thiện tri thức mà Ðại thệ trang nghiêm kiên cố sở hành vậy.

Vì ngăn tâm tán Ðộng mà Ðại thệ trang nghiêm sanh các thiền giải thoát tam muội vậy.

Vì ở chỗ a lan nhã xả ly thân mạng mà Ðại thệ trang nghiêm Ðược lục thần thông vậy.

Vì muốn Ðại sư tử hống không có kinh sợ mà Ðại thệ trang nghiêm hiện tiền Ðược vô ngã pháp vậy.

Vì muốn Ðến tất cả thế giới mà Ðại thệ trang nghiêm muốn biết tất cả pháp như ảo huyễn như chiêm bao như bóng tượng vậy.

Vì chiếu khắp nghiêm sức tất cả thế giới mà Ðại thệ trang nghiêm thanh tịnh cấm giới thọ trì thành tựu lực dụng vậy.

Vì thành tựu Như Lai thập lực mà Ðại thệ trang nghiêm Ðầy Ðủ các Ba la mật vậy.

Vì thành tựu tứ vô sở úy mà Ðại thệ trang nghiêm như sở thuyết hành vậy.

Vì Ðược trọn Ðủ mười tám pháp bất cộng mà Ðại thệ trang nghiêm như pháp Bồ Tát Ðịa Ðược nghe chẳng hí luận vậy. 

Đây là hai mươi pháp Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm.  Do sức trang nghiêm ấy nên có thể thừa Đại thừa.  Bồ Tát dùng sức tự trang nghiêm ấy dứt nhơn duyên ác Ðạo, Ðây gọi là trang nghiêm.  Đầy Ðủ thiện pháp Ðược chư Phật hộ trì, Ðây gọi là trang nghiêm.  Tùy chỗ nào muốn Ðến liền Ðược vãng sanh, Ðây gọi là trang nghiêm.  Xả bỏ tất cả bào thai hay hóa sanh trước chư Phật, Ðây gọi là trang nghiêm.  Hay Ðược thân khẩu ý ba nghiệp vô tranh, Ðây gọi là trang nghiêm.  Trụ hạnh bất phóng dật Ðược chư Thiên và thế nhơn cung kính, Ðây gọi là trang nghiêm.  Khéo thông Ðạt ba môn giải thoát mà chẳng dứt thiệt tế, Ðây gọi là trang nghiêm.  Tất cả vô ngã pháp Ðều Ðược hiện tiền mà vẫn chẳng bỏ Ðại thệ trang nghiêm, Ðây gọi là trang nghiêm.  Đây là Bồ Tát Ðầy Ðủ Ðại thệ trang nghiêm.

Thế nào gọi là trang nghiêm Bồ Tát thừa ? 

Nầy Hư Không Tạng !  Thừa là nói vô lượng vậy, là vô biên vậy, là khắp cùng tất cả như hư không rộng lớn dung thọ tất cả chúng sanh vậy.  Chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật nên gọi là Đại thừa. 

Còn nữa, thừa ấy dùng chánh an trụ tứ nhiếp pháp làm vành, dùng chơn tịnh thập thiện nghiệp làm căm, dùng tịnh công Ðức tư lương làm cốt, dùng kiên cố thuần chí cứu cánh làm chốt ốc, dùng thiện thành tựu các thiền giải thoát tam muội làm trục càng thùng xe, dùng tứ vô lượng tâm làm khéo Ðẩy xe, dùng thiện tri thức làm người ngự xe, dùng biết thời biết phi thời làm phát Ðộng, dùng tiếng vô thường khổ không vô ngã là sách tiến, dùng dây báu thất giác làm cương, dùng tịnh ngũ căn làm dây chằng cột, dùng Ðại bi ngay thẳng làm tràng, dùng Tứ chánh cần làm trục, dùng Tứ niệm xứ làm an lành, dùng Tứ thần túc làm tiến mau, dùng thắng Ngũ lực làm giám trận, dùng Bát chánh Ðạo làm tiến thẳng, với tất cả chúng sanh vô ngại huệ minh làm hiên mui, dùng vô trụ lục Ba la mật hồi hướng Nhứt thiết trí, dùng vô ngại tứ Ðế vượt Ðến bờ kia, Ðây là Đại thừa vậy.  Thừa này là sở thọ của chư Phật, là sở quán của Thanh Văn và Bích Chi Phật, là sở thừa của tất cả Bồ Tát, là chỗ Ðáng Ðược kính lễ của Thiên Đế Thích, Phạm Thiên và Hộ Thế Tứ Thiên Vương, là chỗ Ðáng cúng dường của tất cả chúng sanh, là chỗ Ðáng ngợi khen của tất cả người trí, là chỗ Ðáng hướng về  của tất cả thế gian, tất cả kẻ oán ghét chẳng thể khinh chê Ðược, tất cả các ma chẳng thể phá hoại Ðược, tất cả ngoại Ðạo chẳng thể trắc lượng Ðược, tất cả thế trí chẳng thể tranh Ðược, thừa này thù thắng không có gì hơn Ðược, Ðược các hiền thánh thủ hộ, thừa này tùy nguyện có thể Ðến tất cả Phật giới, vì vậy mà thừa này chiếu sáng khắp nơi vì có thể phóng màn lưới quang minh, thừa này có tiếng lớn vì hay xuất sanh các pháp môn, thừa này chí ý mạnh cứng vì chẳng thối hườn, thừa này bền vững vì chẳng biếng trễ, thừa này Ðứng thẳng vì chẳng khuynh Ðộng, thừa này các sự việc Ðều Ðủ vì hay thỏa mãn tất cả nguyện lành, Ðây gọi là Đại thừa các Ðại thệ trang nghiêm vậy. 

Bồ Tát thừa Đại thừa này rồi thì có thể từ một bực Ðịa Ðến một bực Ðịa, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể xả bỏ lỗi hoạn của các Ðịa, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể xả bỏ các ma nghiệp, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể hóa Ðộ các chúng sanh, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể tịnh Phật thế giới, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể hiện Bồ Tát thần biến, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể Ðộ sanh tử khát lớn, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này.  Có thể nhập vào cảnh giới Như Lai, Ðây là sự trang nghiêm của thừa này. 

Nầy Hư Không Tạng !  Thế nào là Bồ Tát trang nghiêm Ðạo? 

Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm và thừa Đại thừa rồi xả bỏ tất cả tà Ðạo.  Xả bỏ tà Ðạo rồi hướng Ðến chánh Ðạo chơn thiệt Ðến Nhứt thiết trí. 

Sao gọi là chánh Ðạo ?  Đó là chẳng bỏ thiện pháp vậy, là hành Ðại nguyện chẳng thối chuyển Bồ Ðề Ðạo vậy, là siêng tu tinh tiến căn lành chẳng mất vậy, là hành bất phóng dật bất Ðộng thuần chí, chẳng chìm nơi sở tác quyết có thể cứu cánh ngưỡng nắm lấy pháp trên, cầu công Ðức tư lương chẳng hề cho là Ðầy Ðủ, cầu trí huệ tư lương trọn chẳng phế bỏ, Ðây là Bồ Tát chánh Ðạo vậy. 

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng !  Bồ Tát Ðạo ấy là Tứ thiền, Tứ vô lượng tâm, Tứ không Ðịnh, Ngũ thần thông, Tam phước nghiệp, Tam học, Lục ưng kính, Lục niệm, Tứ nhiếp pháp, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh Ðạo phần, Tam giải thoát môn, biết Ấm phương tiện, biết giới phương tiện, biết Nhập phương tiện, biết Tứ Ðế phương tiện, biết Nhơn duyên phương tiện, Ðây gọi là Ðạo. 

Bồ Tát thành tựu Ðạo phương tiện nầy Ðều có thể tùy thuận nhập vào Lục Ba la mật Ðạo.  Tại sao, vì Bồ Tát Lục Ba la mật Ðạo chẳng cùng chung với Thanh Văn, Bích Chi Phật.  Đạo nầy là chỗ Ðược khen ngợi của tất cả chư Phật, từ miệng Như Lai phát ra thành tựu phương tiện. 

Bồ Tát biết Ðược thiệt tánh tất cả pháp thì có thể trụ xuất thế gian Lục Ba la mật thánh Ðạo. 

Thế nào là trụ ? 

Nếu có Bồ Tát thành tựu tự nhiên huệ phương tiện mà cầu Bồ Ðề, ở trong thân ngũ thọ ấm nầy vì như thiệt giác tri mà cầu Bồ Ðề, Bồ Tát này biết sắc vô thường mà hành bố thí, biết sắc khổ, biết sắc vô ngã, biết Ðộn, biết sắc vô trí, biết sắc như huyễn ảo, biết sắc như thủy nguyệt, biết sắc như mộng, biết sắc như bóng, biết sắc như vang, biết sắc như vòng lửa quay, biết sắc không có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ mạng, biết sắc không có chủ không có dưỡng dục, biết sắc là rỗng không, là vô tướng, là vô nguyện, biết sắc là vô tác, là vô sanh, là vô khởi, là vô xuất, biết sắc là vô hình, là tịch tĩnh, là ly, là vô chung, là không có thành tựu Ðồng với hư không, biết sắc như tánh Niết bàn, Bồ Tát biết sắc uẩn như vậy mà hành bố thí. 

Lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên Bồ Tát biết sắc cũng ly, vì sắc ly nên bố thí cũng ly.  Vì sắc và thí Ðều ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết sắc và thí cũng ly.  Vì sắc thí và nguyện ly nên biết Bồ Ðề cũng ly, vì Bồ Ðề ly nên biết sắc thí và nguyện cũng ly, do Ðó mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề.  Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy. 

Như với sắc uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy. 

Bồ Tát biết thức vô thường  nên hành bố thí, biết thức khổ, vô ngã, là Ðộn, là vô trí, như huyễn ảo, như dã mã, như thủy nguyệt, như mộng, như bóng, như vang, như vòng lửa quay, không có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ mạng, không có chủ, không có dưỡng dục, biết thức rỗng không, không có tướng, không có nguyện, là vô tác, vô sanh, vô khởi, vô xuất, biết thức không có hình, là tịch tĩnh, là ly, biết thức không có chung, không có thành tựu cùng hư không bình Ðẳng, biết thức Ðồng tánh Niết bàn, Bồ Tát biết thức uẩn như vậy mà hành bố thí. 

Bồ Tát lúc hành bố thí như vậy, vì thí ly nên biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết thí cũng ly, vì thức và thí ly nên biết nguyện cũng ly, vì nguyện ly nên biết thức và thí cũng ly, vì thức thí nguyện ly nên biết Bồ Ðề cũng ly, vì Bồ Ðề ly nên biết thức thí và nguyện cũng ly, mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề.  Đây là Bồ Tát xuất thế gian Đàn Ba la mật vậy. 

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng ! Bồ Tát biết sắc vô thường mà hộ nơi cấm giới, nhẫn Ðến biết sắc như tánh Niết bàn mà hộ nơi cấm giới.

 Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy. 

Bồ Tát biết thức vô thường mà hộ cấm giới, nhẫn Ðến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hộ nơi cấm giới. 

Vì giới ly nên Bồ Tát biết thức cũng ly, vì thức ly nên biết giới cũng ly, nhẫn Ðến biết tất cả pháp Ðồng Bồ Ðề tánh.  Đây là Bồ Tát xuất thế gian Thi Ba la mật vậy. 

Như Đàn và Thi Ba la mật, Sằn Ðề, Tỳ lê gia, Thiền Ba la mật cũng vậy. 

Bồ Tát biết sắc vô thường mà hành Bát Nhã, nhẫn Ðến biết sắc uẩn như Niết bàn tánh mà hành Bát Nhã. 

Như sắc với uẩn, với thọ, tưởng và hành uẩn cũng vậy. 

Bồ Tát biết thức vô thường mà hành Bát Nhã, nhẫn Ðến biết thức uẩn như Niết bàn tánh mà hành Bát Nhã. 

Vì Bát Nhã bình Ðẳng nên Bồ Tát biết thức bình Ðẳng, vì thức bình Ðẳng nên biết Bát Nhã bình Ðẳng, vì Bát Nhã và thức bình Ðẳng nên biết nguyện bình Ðẳng, vì nguyện bình Ðẳng nên biết Bát Nhã và thức bình Ðẳng, vì biết Bát Nhã thức và nguyện bình Ðẳng nên biết Bồ Ðề bình Ðẳng.  Vì biết Bồ Ðề bình Ðẳng nên biết Bát Nhã thức và nguyện cũng bình Ðẳng.  Do Ðây mà biết tất cả pháp Ðồng tánh Bồ Ðề.  Đây là Bồ Tát xuất thế gian Bát Nhã Ba la mật vậy. 

Bồ Tát xuất thế gian Ba la mật Ðạo nầy Ðều có thể nhiếp thủ tất cả các Ðạo, nên phải biết rằng tất cả các Ðạo Ðều nhiếp vào trong ấy cả.  

Tại sao gọi Ðó là xuất thế gian ư ? 

Nầy Hư Không Tạng !  Ngũ thọ ấm gọi là thế gian.  Bồ Tát khéo phân biệt ngũ ấm, quán nó vô thường nhẫn Ðến như tánh Niết bàn rồi, biết trong Ðạo ấy không có thế gian và pháp thế gian, biết Ðạo ấy là vô lậu là xuất thế gian không có buộc dính, Ðây gọi là xuất thế gian.  Đây gọi là Bồ Tát Ðạo vậy. 

Còn nữa, nầy Hư Không Tạng !  Đạo ấy, Ðó là như thiệt cầu tất cả các pháp phân biệt lựa chọn chẳng thấy tất cả các pháp nối nhau chứa nhóm, không có hai không có khác, nên gọi là Ðạo.  Mà Ðạo ấy thì không có ghét thương, vì không có ghét thương nên gọi là bình Ðẳng, vì tư duy quan sát các thừa khác nên gọi là rộng lớn, vì bỏ lìa siểm khúc nên gọi là ngay thẳng, vì bỏ lìa tâm vạy vò nên gọi là không có gian, vì dứt trừ các cái chướng nên gọi là không có buộc trói trệ ngại, vì bỏ lìa quan niệm dục tham sân hại nên gọi là không có bụi dơ, vì chẳng thọ nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc nên gọi là an vui, vì bỏ lìa phiền não chúng giặc nên gọi là vô úy, vì có thể Ðến Niết bàn nên gọi là xuất yếu, vì thành tựu Ðịnh tịch tĩnh nên gọi là thanh tịnh thủy huệ, vì khéo hiểu biết nên gọi là thường sáng, vì khéo tu tâm từ nên gọi là vui mát, vì chẳng bỏ Ðại bi nên gọi là tiến không nhàm, vì thường hành hỉ nên gọi là vui vẻ, vì thành tựu tâm xả nên gọi là không có lầm lỗi, vì thuận pháp tứ nhiếp nên gọi là giàu lớn, vì thành tựu sức thí món ăn Ba la mật nên Ðược Nhứt thiết trí biện tài, vì Ðược chư Phật khéo hộ trì nên gọi là qua khỏi pháp hành tứ ma, vì chẳng bỏ bổn nguyện nên gọi là tiến không trệ ngại, vì vượt qua dòng các phiền não nên gọi là vô thượng, vì tất cả thế gian không có gì có khả năng hàng phục Ðược nên gọi là không có Ðáp Ðối. 

Đạo ấy thành tựu các công Ðức như vậy và vô lượng công Ðức khác.  Tất cả Bồ Tát Đại Sĩ do thừa Ðạo ấy nên có thể qua lại giáo hóa vô lượng chúng sanh, Ðây là trang nghiêm.  Không có phiền não mà hiện vào phiền não, Ðây là trang nghiêm.  Quán vô sanh mà chẳng chứng thiệt tế, Ðến môn không vô tướng vô tác mà hay giáo hóa những chúng sanh hành các kiến, các tướng, các nguyện, Ðây là trang nghiêm.  Hiện nhập Thanh Văn, Duyên Giác Niết bàn mà chẳng bỏ sanh tử, Ðây là trang nghiêm.  Hiện thọ sanh các loài mà chẳng Ðộng pháp tánh, hiện nói tất cả ngôn giáo mà chẳng Ðộng vô ngôn, Ðây là trang nghiêm.  Hay hiện tất cả Phật sự mà chẳng bỏ Bồ Tát hạnh, Ðây là trang nghiêm. 

Đây là Bồ Tát Ðại thệ trang nghiêm, Đại thừa trang nghiêm và Ðạo trang nghiêm vậy.

Bồ Tát dùng Ðại thệ trang nghiêm Ðể tự trang nghiêm nên có thể thừa Đại thừa thuận xuất thế gian thánh Ðạo, dầu chưa Ðược Nhứt thiết trí mà vì chúng sanh có thể hiện làm Phật sự".

Lúc ấy trong Ðại chúng có một Bồ Tát tên là Bửu Đức hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát : «Bạch Đại Sĩ !  Ngài Ðã tu xuất thế gian thành Ðạo này rồi chăng ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Đã tu, thưa Đại Sĩ".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Ngài tu thế nào ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Như Ðược thanh tịnh Ðạo, tôi tu như vậy".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là thanh tịnh Ðạo ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Thưa Đại Sĩ !  Vì ngã tịnh nên Ðạo tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là ngã tịnh ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Như tam thế tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thế nào là tam thế tịnh ?". 

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Sắc thuở quá khứ tịnh vì sắc bổn tế không có Ðến vậy.  Sắc thuở vị lai cũng tịnh vì sắc vị lai không có Ði vậy.  Sắc thuở hiện tại cũng tịnh vì sắc hiện tại không trụ vậy.  Đây là tam thế tịnh. 

Thọ tưởng hành nhẫn Ðến thức cũng như vậy.

Nầy Đại Sĩ  ! Vì thế trong tam thế tịnh nên ngã tịnh.  Vì ngã tịnh nên gọi là Ðạo tịnh".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Thưa Đại Sĩ !  Đạo tịnh như vậy hay làm Ðược gì ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Hay làm Ðại trí huệ quang minh.  Do sức trí huệ minh ấy nên có thể biết tất cả pháp quá khứ và vị lai tế".

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Sao gọi là pháp quá khứ vị lai tế?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Tất cả pháp quá khứ tế vô sanh, nơi vị lai tế vô diệt, Ðây gọi là biết pháp quá khứ vị lai tế".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Nếu thấy pháp quá khứ vị lai tế là thấy những gì ?".

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Thấy hai Ðều ly".

Bửu Đức Bồ Tát hỏi : «Sao gọi là hai Ðều ly ?". 

Hư Không Tạng Bồ Tát nói :"Là ly Ðoạn và ly thường.  Nầy Đại Sĩ !  Nếu có thấy pháp sanh và trụ trước nơi pháp thì là Ðoạn kiến và thường kiến.  Vì có sanh thì có diệt.  Có sanh có diệt thì là kiến chấp Ðoạn thường.  

Nếu chẳng thấy có pháp từ tự tánh tha tánh sanh thì thấy nhơn duyên.  Nếu thấy nhơn duyên thì thấy pháp.  Nếu thấy pháp thì thấy Như Lai.  Nếu thấy Như Lai thì thấy Như.  Nếu thấy như thì chẳng trệ nói Ðoạn cũng chẳng chấp thường.  Nếu chẳng thường chẳng Ðoạn thì không có sanh không có diệt". 

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Bạch Đại Sĩ ! Nếu vô sanh vô diệt thì sao lại có danh số ?". 

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Vì giả ngôn thuyết mà gọi Ðó là pháp vậy.  Như do có không rỗng nên có tên sắc sai biệt, Ðó là những màu sắc xanh vàng Ðỏ trắng, màu tím, màu pha lê, màu lưu ly, màu thô, màu tế và những hình sắc dài vắn vuông tròn.  Hư không chẳng bị những sắc hình ấy làm nhiễm, mà tất cả sắc hình ấy tự tánh cũng rỗng không.  Tất cả các pháp cũng như vậy Ðồng tánh hư không, chỉ giả ngôn thuyết mà có danh số thôi.  Những là thiện pháp, bất thiện pháp, thế gian pháp, xuất thế pháp, pháp nên làm, pháp chẳng nên làm, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp hữu vi, pháp vô vi.  Nhưng Bồ Tát chẳng làm những việc phi phước.  Việc phước Ðược làm Ðều là hư dối chẳng phải chơn thiệt chẳng phải kiên cố. 

Bồ Tát ấy biết tất cả hạnh và phi hạnh bình Ðẳng, bỏ lìa tất cả tướng.  Vì thành tựu sức Bát Nhã Ba la mật nên hồi hướng Bồ Ðề, mà cũng chẳng thấy Bồ Ðề có tăng có giảm.  Bồ Tát ấy chẳng ở trong sắc cầu Bồ Ðề, cũng chẳng ở trong thọ, tưởng, hành, thức cầu Bồ Ðề.  Bồ Tát vì không cầu nên trụ trong khối thanh tịnh giới, tu vô nguyện giải thoát môn Ðầy Ðủ tất cả nguyện, biết tánh sanh tử Ðồng tánh Niết bàn.  Bồ Tát ấy dầu nhập cứu cánh Niết bàn mà vì Ðoạn trừ chúng sanh hư vọng Ðiên Ðảo nên hành Bồ Tát hạnh nhưng cũng không có hành pháp Ðược hành.  Bồ Tát như vậy nhập vào nơi Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh. 

Nầy Đại Sĩ !  Phàm có sở tác Ðều là sanh tử, không có sở tác Ðây gọi là Niết bàn.  Bồ Tát sở hành là không có sở tác.  Vì vậy mà Bồ Tát gọi là nhập vào Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh. 

Nầy Đại Sĩ !  Phàm có nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận lấy tướng Ðây gọi là sanh tử.  Không có nhiễm trước không y dựa không vọng tưởng không hí luận không lấy tướng, Ðây gọi là Niết bàn.  Bồ Tát do tu không nhiễm trước y dựa vọng tưởng hí luận thủ tướng hành Bồ Tát hạnh Ðây gọi là Bồ Tát nhập Niết bàn hạnh Bồ Tát hạnh". 

Lúc Hư Không Tạng Bồ Tát nói pháp ấy, có năm trăm Bồ Tát Ðược Vô sanh Pháp nhẫn. 

Đức Phật khen rằng : «Lành thay lành thay Hư Không Tạng Bồ Tát khéo nói pháp tánh xứng với Bồ Tát hạnh chơn thiệt không có khác". 

Hư Không Tạng Bồ Tát bạch rằng : «Bạch Ðức Thế Tôn !  Đây là sự khéo lành của Ðức Thế Tôn, tại sao, vì do Phật huệ chiếu sáng nên chúng tôi Ðược có phần luận biện này. 

Dụ như ánh sáng mặt nhựt chiếu Diêm Phù Đề, do sức sáng mặt nhựt mà người có mắt Ðược thấy các sắc tượng làm những sự nghiệp.

 Do sức Ðại trí của Phật chiếu tất cả chúng sanh và các thế giới khác cũng như vậy.  Chư pháp thiệt tánh chẳng thể ngôn thuyết, các ngôn thuyết Ðồng với hư không.  Vì vậy nên các pháp chẳng thể Ðược danh số.  Phàm pháp có danh số thì có hạn lượng.  Phàm có hạn lượng thì là hữu vi.  Phàm là hữu vi thì biết Ðược dứt Ðược tu Ðược.  Phàm là biết Ðược dứt Ðược tu Ðược thì có Ðắc có chứng.  Nếu ở nơi pháp có danh số mà tư duy tính lường phân biệt chẳng thấy có pháp Ðược biết, Ðược dứt, Ðược tu, Ðược Ðắc, Ðược chứng thì không có Ðắc, tại sao, vì tất cả pháp không có sanh vậy.  Có thể chơn chánh thấy các pháp như vậy thì ở trong các pháp chẳng sanh ái nhiễm.  Vì không có ái nhiễm thì không có trụ trước.  Vì không trụ trước thì không kề cận.  Vì không kề cận thì không thọ nhận không nắm lấy.  Sao gọi là không thọ không lấy ?  Đó là sắc hoặc thường hoặc vô thường Ðều không thọ không lấy.  Thọ tưởng hành và thức hoặc thường hoặc vô thường Ðều không thọ không lấy. 

Sắc hoặc khổ hoặc lạc, hoặc có ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh Ðều không thọ không lấy.  Thọ tưởng hành và thức hoặc khổ lạc, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh bất tịnh Ðều không thọ không lấy. 

Sắc hoặc không phi không Ðều không thọ không lấy.  Thọ tưởng hành và thức hoặc không phi không Ðều không thọ, không lấy. 

Sắc hoặc ly phi ly Ðều không thọ không lấy.  Thọ tưởng hành thức hoặc ly phi ly Ðều không thọ không lấy. 

Bồ Tát do không thọ không lấy nên Ðược vô thọ tam muội.  Bồ Tát trụ trong tam muội vô thọ này rồi, chư Phật Thế Tôn dùng tâm thông vô thượng thọ ký cho Bồ Tát ấy.  Bồ Tát ấy dầu nhập Niết bàn thấy tất cả chúng sanh cứu cánh Ðồng tánh Niết bàn, vì giáo hóa chúng sanh nên chẳng bỏ Ðại thệ trang nghiêm và Bồ Tát Ðại bi.  Bồ Tát dùng chánh trí huệ thấy tất cả các hành ly tướng.  Vì Bồ Tát dùng pháp nhãn thấy rõ ràng ly tướng nên có thể nói Như Lai trí minh". 

Bấy giờ Bửu Đức Bồ Tát hỏi Hư Không Tạng Bồ Tát : «Bạch Đại Sĩ !  Sao Ngài cớ gì tự ẩn trí của mình mà nói là do trí lực của Như Lai ?".

 Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Nầy Đại Sĩ !  Đức Như Lai Ðâu chẳng dạy rằng nên ẩn lành tốt mà hiển bày dở xấu ư! 

Nầy Đại Sĩ !  Tôi lại hỏi Ngài tùy ý Ngài Ðáp. 

Nầy Đại Sĩ !  Nếu lúc không có Long Vương A Na Bà Đạt Đa thì ao A Nậy Đạt có thể chảy ra thành bốn con sông Ðể chúng sanh thọ dụng chăng ?". 

Bửu Đức Bồ Tát nói : «Không có, thưa Đại Sĩ ". 

Hư Không Tạng Bồ Tát nói : «Nầy Đại Sĩ !  Nếu không có Ðức Như Lai thì không có pháp luật, Bồ Tát không do Ðâu Ðể thành biển Ðại trí, cũng chẳng thể lợi ích tất cả chúng sanh.  Do Ðức Như Lai xuất thế mới có pháp luật mà chư Bồ Tát Ðược thành biển Ðại trí, cũng có thể hóa Ðộ tất cả chúng sanh.  Vì thế nên biết rằng tất cả Bồ Tát Ðược biện thuyết có thể dùng Ðó Ðể lợi ích chúng sanh Ðều là thần lực của Như Lai ". 

Bửu Đức Bồ Tát lại hỏi : «Bạch Đại Sĩ !  Như Lai biện có thể chuyển Ðến tâm Bồ Tát chăng ?". 

Hư Không Tạng Bồ Tát Ðáp : «Không có". 

Bửu Ðức  Bồ Tát hỏi  : ‘’ Như vậy thì thế nào vì do thần lực Như Lai mà Bồ Tát Ðưọc biện thuyết ư ?’’ 

Hư Không Tạng  Bồ Tát nói : ‘’ Nầy Ðại Sĩ! Ví dụ như khéo trồng cây ăn trái, nhơn duyên hòa hiệp bèn có trái có hột, nhưng cây chẳng phải là trái, mà trái thì chẳng rời cây. 

Ðức Như Lai  thuyết pháp, Bồ Tát ở trong pháp ấy vì khéo thuận hành bèn sanh Ðại trí minh biện. Nhơn nơi Ðức Phật thuyết pháp mà Ðược, cũng  không có chuyển ‘’. 


Xem dưới dạng văn bản thuần túy