Nầy Bửu Nữ!
Ðại Bồ Tát vì thành tựu vô lượng công đức như vậy nên được ba mươi hai
tướng ấy”.
Bửu Nữ lại
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Ðại Bồ Tát thiệt là bất khả tư nghị. Lành
thay đức Thế Tôn nói rất tốt về Phật pháp”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nấy Bửu Nữ! Ðúng như lời ngươi nói. Tất cả chúng sanh nghe những
nghĩa nầy thì được vô lượng công đức, nghe rồi mà tin thì cũng được vô
lượng công đức”.
Lúc đức Phật
nói pháp nầy, mười phương vô lượng vô biên thế giới chấn động sáu cách, vô
lượng chúng sanh phát tâm Bồ đề, năm ngàn Bồ Tát được vô sanh nhẫn, trên
hư không chư Thiên mưa các thứ hoa trời cùng trỗi các loại kỹ nhạc trời để
cúng dường đức Phật. Những chúng sanh nào đã ở chỗ vô lượng vô biên chư
Phật vun trồng căn lành mới được nghe thập lực tứ vô sở úy thập bát bất
cộng pháp và tam thập nhị tướng của Như Lai. Người ấy nghe rồi có thể sanh
lòng tin sâu, tin rồi có thể ở giữa đại chúng làm sư tử hống mà diễn nói
pháp nầy. Tại sao vậy, vì những hạng người hạ liệt thì chẳng được nghe,
dầu được nghe họ cũng vì tất sanh lòng tin, bực thượng nhơn trì giới trí
huệ đầy đủ mới có thể được nghe, nghe rồi kính tin, tin rồi không lâu sẽ
được Vô thượng Bồ đề.
Bửu Nữ bạch
rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Phật Như Lai bất khả tư nghị, Pháp và Tăng cũng
bất khả tư nghị, nghe và tín kinh nầy cũng bất khả tư nghị, nếu có người
kính tin kinh nầy, thì người ấy quyết định được Vô thượng Bồ đề.
Bạch đức Thế
Tôn! Thế nào là Bồ Tát tu hành pháp hạnh?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Bửu Nữ! Ðại Bồ Tát chẳng bỏ hàng thân thuộc bạn bè, biết ơn báo
ơn, thương xót tất cả, nếu có ai quy y thì trọn không vứt bỏ, chí tâm nhớ
nghĩ đạo Bồ đề, tu hạnh nhẫn nhục, hay xả thí vật khó xả thí, nhiếp lấy
chúng sanh, từ tâm hộ trì tịnh giới, tư duy nghĩa ý pháp hành, hộ trì
chánh pháp, thích chánh pháp, nhớ chánh pháp, thọ trì chánh pháp, thích
tịch tĩnh ở riêng chỗ rảnh rang vắng vẻ, với đạo Bồ đề lòng không thối
không hối, khéo thủ hộ chúng sanh thanh tịnh thân khẩu ý, vì tứ vô lượng
tâm mà phát đại nguyện, thường khuyên bảo chúng sanh hướng về đạo Bồ đề,
lúc giảng thuyết luận bàn thì trước tán thán Ðại thừa, chẳng có trước hứa
hẹn người mà sau sanh lòng hối, thanh tịnh phẩm hạnh tri túc thiểu dục
chẳng xan chẳng đố chẳng dứt thánh chủng, tâm không hề tranh cãi, biết rõ
nhơn quả, có đủ tin văn giới thí tàm quí và trí huệ, gần kề thiện hữu,
thuận theo lời dạy của bực Sư trưởng, tâm không kiêu mạn, cung kính lễ lạy
các bực trưởng lão có đức, rời lìa tham sân si ngã và ngã sở, thường niệm
Phật Pháp Tăng thí giới và chư Thiên, lúc được cung kính cúng dường tâm
không cao ngạo, thường siêng tu hành sáu Ba la mật, ba môn giải thoát và
các thiện phương tiện, chẳng thấy các tướng ngã thường chúng sanh thọ mạng
sĩ phu, thường tu Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ
lực, Thất giác chi và bát chánh đạo, đây gọi là Bồ Tát tu hành pháp hạnh.
Lại Bồ Tát
pháp hành là không có nhãn không có sắc không có sắc tưởng hành, không có
nhĩ không có thanh không có thanh tưởng hành, không có tỷ không có hương
không có hương tưởng hành, không có thiệt không có vị không có vị tưởng
hành, không có thân không có xúc không có xúc tưởng hành, không có ý không
có pháp không có pháp tưởng hành. Lại nữa, chẳng phải sắc hành chẳng phải
sắc chẳng phải chẳng sắc hành, chẳng phải sắc khổ hành chẳng phải sắc
chẳng phải chẳng sắc khổ hành, chẳng phải sắc ngã hành chẳng phải chẳng
sắc ngã hành, chẳng phải sắc không hành chẳng phải chẳng sắc không hành,
chẳng phải sắc vô tướng hành, chẳng phải sắc vô nguyện hành, chẳng phải
sắc vô tác hành, chẳng phải sắc tánh hành, chẳng phải sắc thiệt hành,
chẳng phải sắc tịch tĩnh hành, chẳng phải sắc sanh hành, chẳng phải sắc
xuất hành, chẳng phải sắc nhơn duyên hành, chẳng phải sắc tụ hành, đây gọi
là pháp hành. Như với sắc, với thọ với tưởng với hành và với thức cũng như
vậy.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu không có Ngũ ấm, Lục nhập, Thập bát giới hành như vậy thì gọi là pháp
hành.
Không có Dục
giới hành, không có Sắc giới hành, không có Vô Sắc giới hành, không có an
trụ không có giải thoát thì gọi là pháp hành.
Không có khứ
không có lai, không có trụ xứ, không có tâm ý thức, không có kiến văn
không có tri thức, không có thân khẩu ý nghiệp, chẳng phải pháp chẳng phải
phi pháp, chẳng phải nhứt chẳng phải nhị, chẳng phải quá khứ vị lai hiện
tại, chẳng phải cấu tịnh, chẳng phải tụ tán, chẳng phải ngã chúng sanh thọ
mạng sĩ phu, chẳng phải đoạn thường, chẳng phải ngã ngã sở, chẳng phải thỉ
chung, đây gọi là pháp hành, gọi là ngã pháp, gọi là trụ xứ, gọi là pháp
tánh, gọi là pháp xứ, gọi là không xứ phi xứ, gọi là cứu cánh xứ, chẳng
động chẳng trụ không có tướng dạng hình mạo, không xuất không diệt không
có tu hành, không thủ không xả, không lãnh thọ không xả thí. Nếu có thể
thấy biết các pháp như vậy thì gọi là chơn trí, là thiệt tri, là pháp tri.
Nấy Bửu Nữ!
Nếu thấy Bồ Tát học được như vậy, vì các chúng sanh mà đi trong sanh tử,
với Niết bàn không có động chuyển, đây gọi là Bồ Tát chơn thiệt pháp
hành”.
Lúc đức Thế
Tôn nói pháp nầy, trong pháp hội có tám ngàn Bồ Tát được pháp nhẫn.
Bấy giờ Bửu
Nữ đồng nữ lại dâng các thứ trân bửu vật quí đẹp cúng dường đức Phật mà
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát hành các pháp hạnh như vậy tức
là tu hành tất cả Phật hạnh, liền được thọ ký ngồi Bồ đề thọ thành Vô
thượng Chánh đẳng Chánh giác”.
Tôn giả Xá
Lợi Phất hỏi Bửu Nữ: "Có phải nhơn giả đã biết Bồ Tát bất thối ấn chăng?”.
Ðồng nữ Bửu
Nữ nói kệ đáp rằng:
Các chúng sanh giới và pháp giới
Nếu bình đẳng xem không có khác
Chẳng sanh phân biệt số nhứt nhị
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Quá khứ vị lai và hiện tại
Mười phương thế giới các Thế Tôn
Thảy đều bình đẳng quán pháp giới
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Thấy hữu vi giới đều vô thường
Hữu lậu vô lậu cũng như vậy
Biết tất cả pháp bổn tánh tịnh
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Thấy các sanh tử không số lượng
Chẳng thể đếm kể biết số ấy
Nếu trong một niệm mà biết được
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Tất cả thế gian các pháp giới
Và cùng xuất thế các thánh pháp
Nếu hay bình đẳng rõ chơn thiệt
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Nếu biết rõ được các pháp giới
Và cùng Ba Tuần các ma giới
Thông đạt hai giới vô sai biệt
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Tham dục sân khuể cùng ngu si
Tất cả phiền não của chúng sanh
Biết từ điên đảo nhơn duyên sanh
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Pháp sanh tử cùng với Niết bàn
Vô thượng chánh đạo và Bồ đề
Quan sát pháp ấy vô sai biệt
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Thấy biết ngũ ấm thập bát giới
Và lục nhập đồng tánh Bồ đề
Các pháp như vậy không hai tánh
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Ðịa thủy hỏa phong và sở tạo
Thấy nó dường như hư không giới
Như vậy thì được chơn thiệt ấn
Cũng như mười phương chư Phật ấn
Như nhãn giới Bồ đề cũng vậy
Hai pháp bình đẳng vô sai biệt
Tự mình thọ trì cũng dạy người
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Biết tất cả tâm của chúng sanh
Hay làm nhơn duyên tất cả tâm
Nhơn duyên như vậy không chướng ngại
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Hay khắp quán sát các chúng sanh
Căn của họ thượng trung hoặc hạ
Hay quán sanh tử tận bỉ ngạn
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Bao nhiêu chữ nghĩa câu vô tận
Trong vô lượng kiếp thường diễn thuyết
Không thể phá hoại chướng ngại được
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Biên tế hư không có thể cùng
Gió mạnh thế gian có thể buộc
Những tâm bất thối của Bồ Tát
Tất cả thế gian chẳng chuyển được
Thành tựu vô lượng đà la ni
Ở trong các pháp chẳng thất niệm
Thứ đệ diễn thuyết các pháp nghĩa
Như từ miệng Phật không có khác
Mười phương thế giới Phật Thế Tôn
Vì độ chúng sanh thuyết vô lượng
Ðều hay thọ trì hiểu thâm nghĩa
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Những pháp được nghe vô lượng kiếp
Như hiện tại nghe mà diễn thuyết
Vô lượng đời học đà la ni
Chúng được vô tận ấn như vậy
Thành tựu đầy đủ tổng trì ấy
Cũng đủ vô thượng chơn trí huệ
Nếu được Bồ Tát bất thối ấn
Thì hay tuyên nói pháp như vậy
Nếu quán tất cả pháp rỗng không
Cũng chẳng thân cận chẳng viễn ly
Nếu thành tựu được bất thối tâm
Thì biết người nầy có không ấn
Tất cả các pháp như hư không
Tánh nó bổn lai không sanh diệt
Nếu biết rõ được pháp giới ấy
Ðây gọi Bồ Tát bất thối ấn
Các pháp đều từ nhơn duyên có
Rời các nhơn duyên không pháp giới
Nếu biết rõ được nhơn duyên sanh
Phải biết là có bất thối ấn
Bao nhiêu oai nghi những sắc thanh
Trong một niệm đều hay thị hiện
Vì muốn giáo hóa các chúng sanh
Ðây là Bồ Tát bất thối ấn
Tâm bố thí rộng như hư không
Trong vô lượng kiếp chẳng cùng tận
Thành tựu vô lượng các công đức
Ðây là Bồ Tát bất thối ấn
Tu tập tịnh giới vì Phật giới
Chứng được Phật giới như hư không
Thành tựu như vậy vô thượng giới
Ðây là Bồ Tát bất thối ấn
Tất cả chúng sanh có cấm giới
Và hữu học giới vô học giới
Dầu có như vậy vô lượng giới
Chẳng bằng bất thối một phần nhỏ
Nếu được tối thượng vô sanh nhẫn
Thành tựu vô lượng cũng vô biên
Nếu được như vậy vô sanh nhẫn
Như quá khứ Phật đã chứng được
Vì chúng sanh phát thiện trang nghiêm
Trong vô lượng đời chẳng thôi nghỉ
Siêng thường tu tập hạnh tinh tiến
Ðây là Bồ Tát bất thối ấn
Thường thích tu tập các thiền định
Cũng vì chúng sanh tuyên nói pháp
Dầu lại thị hiện các oai nghi
Mà nội tâm ấy không rời định
Ðầy đủ vô thượng chánh tri kiến
Xa lìa phiền não các tập khí
Nếu có thành tựu bất thối tâm
Thì hay gần kề cảnh giới Phật
Ðầy đủ ba thứ đại thần thông
Cũng đủ Như Lai thiện phương tiện
Nếu có thành tựu bất thối tâm
Người ấy sắp được chánh giác ấn
Tất cả chúng sanh chẳng biết được
Tâm hành cảnh giới của người ấy
Tu vô lượng hạnh vì chúng sanh
Ðây là Bồ Tát bất thối ấn
Kỳ thiệt chưa được vô thượng đạo
Mà hay thị hiện thân Như Lai
Giáng sanh thành Phật chuyển pháp luân
Cũng lại thị hiện đại Niết bàn
Chưa bỏ Bồ Tát bất thối ấn
Cũng hay chứng được ấn như vậy
Cũng như hư không không có biên
Phật ấn đã được cũng như vậy”.
Lúc Bửu Nữ
đồng nữ nói kệ ấy, Ðại Thiên thế giới chấn động sáu cách, trong pháp hội
có năm ngàn Bồ Tát được bất thối ấn.
Ðức Thế Tôn
khen rằng: "Lành thay, lành thay! Bửu Nữ nói Bồ Tát bất thối ấn rất hay”.
Tôn giả Tu Bồ
Ðề bạch đức Phật: "Bạch đức Thế Tôn! Bửu Nữ quyết định đã được bất thối
chuyển ấn, nếu chưa chứng được thì làm sao có thể tuyên nói như vậy được”.
Ðức Phật phán
dạy: "Ðúng như vậy, nầy Tu Bồ Ðề như lời ngươi nói, Bửu Nữ ấy từ lâu đã
được bất thối ấn, trí nhẫn thành tựu đã cùng tận bờ đáy Ðại thừa thậm
thâm”.
Bửu Nữ lại
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Cớ sao gọi là Ðại thừa?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Bửu Nữ! Gọi là Ðại thừa ấy, vì thừa ấy rộng lớn, vì với tất cả
các chúng sanh không có quái ngại, vì là căn bổn của thiện căn Nhứt thiết
trí, vì không có các phiền não kiết sử vô minh, vì quang minh ấy không chỗ
nơi nào mà không chiếu khắp, vì vòng khắp các bên của nó đều có nhãn mục,
vì bổn tánh nó thường thanh tịnh không hề có ô nhiễm, vì dứt sạch các
phiền não tất cả tập khí, vì có đủ các điều như vậy nên gọi là Ðại thừa.
Lại vì hộ trì cấm giới nên gọi là thanh tịnh, vì tu tập chánh định nên gọi
là an trụ, vì tu tập trí huệ nên gọi là vô lậu, vì tu giải thoát nên gọi
là không trói buộc, vì chỉ bày tất cả các pháp bình đẳng vô nhị nên gọi là
giải thoát, vì trí nhiếp thập lực nên gọi là vô năng động, vì đủ bốn vô sở
úy nên gọi là không kinh sợ, vì nhiếp lấy mười tám pháp bất cộng nên gọi
là vô ngại, vì tu tập đại từ nên gọi là bình đẳng, vì phá hoại tất cả ma
chúng nên gọi là tối thắng, vì dẹp phiền não ma nên gọi là tịch tĩnh, vì
phá hoại ngũ ấm ma nên gọi là bất khả sổ, vì phá hoại tử ma nên gọi là
thường trụ, vì đầy đủ Ðàn Ba la mật nên gọi là phú túc, vì đầy đủ Thi la
Ba la mật nên gọi là vô nhiệt, vì đầy đủ Sằn đề Ba la mật nên gọi là vô
oán, vì đầy đủ Tinh tiến Ba la mật nên gọi là vô động, vì đầy đủ Thiền Ba
la mật nên gọi là vô lậu vô chuyển, vì đầy đủ Bát Nhã Ba la mật nên gọi là
thắng tất cả thế gian và xuất thế gian, vì đầy đủ Phương tiện Ba la mật
nên gọi là nhiếp lấy tất cả các thừa, vì đoạn dứt tất cả các hữu nên gọi
là vô hữu, vì có nhơn nơi bát chánh đạo nên gọi là đặt đủ cánh định huệ,
vì đi qua lại vô ngại điều phục các căn nên gọi là đại thần thông, vì tu
tứ niệm xứ và tứ chánh cần nên thấy được tất cả chư Phật thế giới và xa
lìa ác pháp gần kề thiện pháp, vì tu thất giác phần nên xa lìa tất cả
phiền não kiết sử, vô vi, vô lậu, vô thắng, vô thượng, vô kiến đảnh, vô
năng tri, vô chướng ngại, nên cũng không có kiến văn không có chỗ nhập
xuất, là đại chúng đại đường, là nhứt vị, là bất tác, không có số lượng
bình đẳng không có hai, được danh hiệu lớn, mười phương vô ngại, được tất
cả nhơn thiên cung kính, thành tựu vô lượng vô biên công đức, dứt hẳn tất
cả xan lẫn phá giới tổn hại giải đãi loạn tâm vô minh, hay làm cho tất cả
chúng sanh được đa văn được an lạc, dứt tất cả khổ khiến làm thiện nghiệp,
được Phật trí, vô ngại trí, vô thượng trí, bình đẳng trí, Nhứt thiết trí.
Ðây gọi là Ðại thừa vậy”.
Lúc đức Phật
nói pháp ấy rồi có một vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh
đẳng Chánh giác. Ðã phát tâm rồi lại đồng nói rằng: "Nếu có chúng sanh có
thể phát tâm Ðại thừa như vậy thì được vô lượng thiện pháp lợi ích”.
Bửu Nữ đồng
nữ lại bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Do có chướng ngại gì mà làm cho chúng
sanh chẳng mau được Ðại thừa?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Có ba mươi hai sự có thể làm nhơn duyên chướng ngại : một là thích
Thanh Văn thừa, hai là thích Duyên Giác thừa, ba là thích thân Thiên Ðế
Thích, bốn là thích thân Phạm Thiên, năm là thích được vui thế gian mà thọ
cấm giới, sáu là thích tu một điều thiện, bảy là thường có lòng ganh ghét,
tám là có nhiều của cải mà tham lẫn, chín là chẳng thích khuyên bảo người
tu pháp lành, mười là có tâm kiêu mạn, mười một là chẳng cầu tâm Bồ đề,
mười hai là sợ tâm Bồ đề, mười ba là ở trong một pháp sanh lòng tham
trước, mười bốn là tư duy chẳng lành, mười lăm là chẳng có thể gần kề Sư
trưởng Hòa thuợng thiện tri thức, mười sáu là phỉ báng các bộ phái khác,
mười bảy là chẳng thể thanh tịnh ba nghiệp thân khẩu ý, mười tám là chẳng
thể hộ trì pháp vô thượng, mười chín là được chút ít pháp vị lẫn tiếc
chẳng nói dạy người, hai mươi là hiểu được chút ít pháp nghĩa sanh đại
mạn, hai mươi mốt là xa lìa tứ nhiếp pháp, hai mươi hai là chẳng thể cung
kính bạn đồng thầy đồng học, hai mươi ba là chẳng thích nhớ niệm sáu pháp
Ba la mật, hai mươi bốn là xa lìa tam tụ, hai mươi lăm là chẳng phát đại
nguyện, hai mươi sáu là ít thiện căn, hai mươi bảy là điên đảo hiểu nghĩa,
hai mươi tám là chẳng tán thán Tam bửu, hai mươi chín là phỉ báng các sự
Bồ đề Ðại thừa, ba mươi là tự chẳng hiểu nghĩa mà chê người nói pháp, ba
mươi mốt là chẳng hiểu biết rõ những sự ma, ba mươi hai là thích sanh tử.
Ðây là ba mươi hai sự chướng ngại Ðại thừa chẳng cho chúng sanh mau được
Ðại thừa.
Nầy Bửu Nữ!
Những sự chướng ngại như vậy có đến vô lượng, nay Phật vì ngươi mà nói
lược thôi.
Nầy Bửu Nữ!
Ðại thừa có vô lượng công đức nên sự chướng ngại cũng có vô lượng. Cũng
như Niết bàn công đức vô lượng, sự chướng ngại Niết bàn cũng là vô lượng.
Lỗi sanh tử có vô lượng vô biên chính đó là sự chướng ngại Ðại thừa vậy.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu người có thể xa lìa vô lượng ác pháp ấy nên biết người ấy liền được
Ðại thừa.
Nầy Bửu Nữ!
Nếu Bồ Tát có thể được tâm thanh tịnh nên biết người ấy liền được Ðại
thừa".
Bửu Nữ đồng
nữ bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh thế nào mau được thành tựu vô
thượng Ðại thừa?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy Bửu Nữ! Có ba mươi hai sự chúng sanh tu tập thì có thể mau được
Ðại thừa vô thượng.
Một là chúng
sanh chẳng thỉnh mà tự qua hiến giúp, hai là thấy người được phước đức
không sanh lòng ganh ghét, ba là chí tâm tu tập vô lượng thiện căn, bốn là
kinh doanh sự nghiệp cho người chẳng sanh sầu não, năm là tâm không trược
loạn thân khẩu ý thanh tịnh, sáu là chẳng vì lợi dưỡng mà cải đổi oai
nghi, bảy là an trụ đúng như thuyết, tám là với các chúng sanh tâm luôn
thanh tịnh, chín là trọn chẳng buông bỏ tâm Bồ đề, mười là thanh tịnh
trang nghiêm Ðàn Ba la mật, mười một là thanh tịnh Thi Ba la mật vì thương
xót kẻ hủy cấm giải vậy, mười hai là thanh tịnh Nhẫn Ba la mật vì chẳng
tiếc thân mạng vậy, mười ba là thanh tịnh Tinh tiến Ba la mật vì được thập
lực tứ vô sở úy vậy, mười bốn là thanh tịnh Thiền Ba la mật vì xa lìa
phiền não vậy, mười lăm là thanh tịnh Bát Nhã Ba la mật vì trừ tập khí
phiền não vậy, mười sáu là tu dũng kiện định vì phá các ma nghiệp vậy,
mười bảy là chí tâm độ thoát các chúng sanh, mười tám là tu tứ nhiếp pháp,
mười chín là tâm thường bình đẳng, hai mươi là chẳng bỏ tất cả chúng sanh,
hai mươi mốt là biết ơn báo ơn, hai mươi hai là hộ trì chánh pháp, hai
mươi ba là tu tập pháp trợ đạo chẳng thôi nghỉ, hai mươi bốn là với các
pháp lành tâm không nhàm đủ, hai mươi lăm là phá kiêu mạn, hai mươi sáu là
cúng dường Tam bảo, hai mươi bảy là nơi tất cả pháp không sanh lòng phỉ
báng, hai mươi tám là giỏi hiểu mười hai thâm nhơn duyên, hai mươi chín là
có đủ thất thánh tài, ba mươi là nơi tất cả pháp được tự tại, ba mươi mốt
là tu sáu thần thông, ba mươi hai là tu tập định tuệ. Ðây gọi là ba mươi
hai sự mà chúng sanh tu tập thì mau được Bồ đề vậy”.
Lúc đức Phật
nói pháp nầy có bảy vạn hai ngàn chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, một vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh Pháp nhẫn. Chư Thiên dùng
hương hoa kỹ nhạc cúng dường đức Phật tôn trọng tán thán mà nói lời rằng:
"Nếu có ai được nghe các kinh như vậy thì nên biết người ấy quyết định
được Vô thượng Bồ đề”.
Lúc ấy, Phạm
Thiên, Ðạo Lợi Thiên, Tứ Thiên Vương Thiên đồng bạch đức Phật rằng: "Bạch
đức Thế Tôn! Hôm nay đức Như Lai diễn nói vô hạn lượng nghĩa như vậy,
nghĩa liễu nghĩa như vậy, nghĩa phá phiền não như vậy có thể dẹp các
nghiệp ma phá các tà kiến có thể hộ trì tất cả chánh pháp vô thượng. Chúng
tôi cũng có thể thọ trì đọc tụng thơ tả giải thuyết. Nếu đệ tử Phật mà có
ai hay thọ trì đọc tụng thơ tả vì người diễn nói rộng thì chúng tôi sẽ vệ
hộ người ấy. Nếu có ác quỷ muốn làm hại người ấy chúng tôi sẽ ngăn trở
không cho làm hại được”.
Ðức Phật khen
chư Thiên rằng: "Lành thay lành thay, nầy chư thiện nam tử! Lúc ấy nếu các
người có thể hộ trì đệ tử của Phật thì tức là hộ trì Phật chánh pháp, hộ
trì như vậy thì chánh pháp được còn lâu”.
Ðức Thế Tôn
bảo Tôn giả A Nan rằng: "Nầy A Nan! Ông nên thọ trì ủng hộ diễn thuyết
kinh điển như vậy. Nếu có Bồ Tát trong vô lượng kiếp thích tu tập huệ thí,
lại có Bồ Tát thọ trì kinh nầy đọc tụng thơ tả rộng nói cho người tu đại
từ bi gồm đem nghĩa kinh nầy khuyên người tu học thì người nầy được phước
nhiều hơn người kia và có thể mau được Ðại thừa”.
Tôn giả A Nan
bạch rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì và phụng trì thế nào?”.
Ðức Phật phán
dạy: "Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Chơn thiệt pháp nghĩa tỳ ni phương tiện
thành tựu phát tâm vô lượng bửu tụ vô lượng đà la ni thập lực tứ vô sở úy
bất cộng pháp tụ Bồ Tát Ma ha tát bất thối chuyển ấn quảng thuyết Ðại
thừa, cũng gọi là Bửu Nữ sở vấn. Ông nên phụng trì như vậy”.
Tôn giả A Nan
tất cả đại chúng Nhơn Thiên nghe đức Phật nói kinh nầy rồi đều rất vui
mừng tín thọ phụng hành.
Pháp Hội Bửu Nử - Thứ Năm Mươi Hai
Hết
--- o0o ---
Xem dưới dạng văn bản thuần túy
|