× Trang chủ Tháp Babel Phật giáo Cao Đài Chuyện tâm linh Nghệ thuật sống Danh bạ web Liên hệ

☰ Menu
Trang chủ » Phật giáo » Kinh điển

Kinh Bồ Tát Thiện Giới



Phẩm thứ hai mươi…Công đức

Đại Bồ Tát tu hạnh Bồ Đề, có năm sự không thể nghĩ bàn:

1.Thương xót tất cả chúng sanh.

2.Vì lợi ích chúng sanh chịu khổ sống chết.

3.Dùng phương tiện khéo điều phục chúng sanh.

4.Phát tâm muốn biết nghĩa sâu thẳm khó khăn.

5.Muốn biết thần túc chẳng thể nghĩ bàn.

Năm pháp trên đây tất cả chúng sanh chẳng thể chung cùng, do đó gọi là chẳng thể nghĩ bàn.

Đại Bồ Tát lại có năm sự không thể nghĩ bàn. Thế nào là năm?

1.Vì lợi ích chúng sanh, Đại Bồ Tát chịu cái nhân khổ, bởi chịu nhân khổ cho nên cảm thọ an vui, do sự thọ vui cho nên thành tựu pháp chẳng thể nghĩ bàn.

2.Đại Bồ Tát xem tai họa của sự sống chết, quán sát Niết Bàn thanh tịnh vắng lặng, vì khắp chúng sanh, Bồ Tát tự mình chẳng đắm Niết Bàn, chịu sự trôi lăn trong vòng sinh tử. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

3.Bồ Tát thích ở những chỗ rảnh rang, vắng vẻ, im lìm, song vì chúng sanh mà diễn nói chánh pháp. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

4.Đại Bồ Tát vì khắp chúng sanh mà tu lục độ (sáu ba la mật), lại cũng chẳng mong thành quả bởi lục ba la mật. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

5.Đại Bồ Tát xem sự nghiệp của người không khác sự nghiệp chính mình gây tạo, cam lòng vui ưa không nề siêng khổ. Đây gọi là thọ vui. Do sự thọ vui cho nên thành tựu đầy đủ pháp chẳng thể nghĩ bàn.

Trên đây là pháp chẳng thể nghĩ bàn, thuộc năm sự việc của Đại Bồ Tát.

Bồ Tát lại có năm điều mà với chúng sanh, tâm của Bồ Tát luôn luôn bình đẳng. Đây là năm Điều:

1.Lúc mới phát tâm Bồ đề, Bồ Tát vì khắp tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ riêng vì một người nào. Đó là bình đẳng.

2.Đại Bồ Tát tu tâm Đại bi, là vì chúng sanh chẳng phải chỉ riêng vì một số người. Đây gọi là bình đẳng.

3.Khi Đại Bồ Tát tu hành đến bực Pháp vương Tử, Bồ Tát cũng vì tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ vì một cá nhân nào, gọi là bình đẳng.

4.Bồ Tát quán khắp mười hai nhân duyên, tất cả chúng sanh đồng có, gọi là bình đẳng.

5.Đại Bồ Tát cầu Vô thượng Bồ Đề, chính là vì khắp tất cả chúng sanh, chẳng phải chỉ vì một cá nhân nào. Đây gọi là bình đẳng.

Đại Bồ Tát có năm điều làm lợi ích chúng sanh. Đây là năm điều:

1.Chỉ dạy chúng sanh tu sửa theo cách mưu sinh chánh đáng.

2.Chỉ dạy tập học các phương pháp theo sự nghiệp thế gian.

3.Gặp kẻ nghèo nàn, dùng phương tiện dạy, khiến họ phá hỏng sự khổ nghèo nàn.

4.Vì bực thượng thiện nói đạo chánh thật.

5.Vì khắp ba thừa mà nói giáo pháp thuộc về ba thừa.

Trên đây gọi là năm sự lợi ích.

Tất cả chúng sanh có năm điều để báo ơn Bồ Tát. Đây là năm việc:

1.Thọ trì pháp lành và các giới cấm.

2.Kẻ nghèo nghe rồi y giáo tu hành hầu phá sự nghèo.

3.Cúng dường Tam Bảo.

4.Những pháp gì được nghe từ Bồ Tát, nghe rồi đọc tụng, biên chép, phân biệt giải nói, xoay vần dạy lại cho những người khác.

5.Gặp người trì pháp thì kính cúng dường.

Đại Bồ Tát hành đạo Bồ Đề dốc lòng lập nguyện thường cầu năm việc:

1.Thường nguyện thế gian có Phật xuất hiện.

2.Thường nguyện đầy đủ sáu ba la mật.

3.Thường nguyện tìm tòi tạng Kinh, tạng Luận thuộc Bồ Tát thừa.

4.Thường nguyện sẽ được giải thoát sanh tử.

5.Thường nguyện quyến thuộc đều được thành tựu.

Đó gọi là năm việc.

Đại Bồ Tát có năm sự việc lợi ích chúng sanh, như trước đã nói ở phần lợi hành.

Đại Bồ Tát có năm điều làm cho mau được Vô thượng Bồ Đề:

1.Hộ trì chánh pháp.

2.Tu hành thiện hạnh.

3.Sức mạnh của trí tuệ.

4.Chuyên tâm vắng lặng.

5.Quyết định được tánh Bồ Tát.

-Hộ trì giáo pháp (chánh pháp): Bồ Tát đầy đủ Đà la ni hộ trì, nghe pháp nơi người, nhanh chóng được hiểu.

Lại nữa, Bồ Tát đủ sự hộ niệm của các đức Phật, cho nên Bồ Tát thọ pháp chẳng quên.

Lại nữa, Bồ Tát đủ trí tuệ hộ trì, bởi trí tuệ hộ trì cho nên phân biệt pháp giới.

Lại nữa, Bồ Tát đầy đủ thâm tâm hộ trì để chế ngự các giác quan.

Lại nữa, Bồ Tát đủ tâm hộ trì tha nhân mà thực hành phương tiện.

Trên đây gọi là hộ trì giáo pháp.

-Tu hành thiện hạnh: Đối với giáo pháp, Bồ Tát hiểu biết một cách xuôi thuận, nói cũng xuôi thuận, thường tu thiện pháp, bốn Vô lượng tâm, nguyện hướng Vô lượng chánh đẳng Bồ Đề. Đây mệnh danh là tu hành thiện hạnh.

-Sức mạnh của trí tuệ: Đại Bồ Tát từ lúc sơ phát tâm cho đến được Vô thượng Bồ Đề. Đó gọi là sức mạnh của trí tuệ.

-Chuyên tâm vắng lặng: Đại Bồ Tát dùng mười pháp thanh tịnh cúng dường Như Lai, gọi là vắng lặng. (mười pháp cúng dường như đã nói nơi phẩm Cúng dường Tam Bảo).

-Quyết định được tánh Bồ Tát: Đại Bồ Tát trụ bực Pháp vương tử hoặc bực Bất thoái chuyển. Gọi là quyết định được tánh Bồ Tát.

Trên đây gọi là năm việc mau được Vô thượng Bồ đề.

Có năm điều làm cho Bồ Tát tổn giảm thiện pháp. Năm điều là gì?

1.Một chẳng hay cúng dường giáo pháp và người thuyết pháp.

2.Buông lung, biếng nhát.

3.Ưa khởi phiền não, tâm động không ngừng.

4.Sanh tâm kiêu mạn đối với Bồ Tát đồng hạnh.

5.Giải nghĩa lộn xộn về tạng pháp Bồ Tát.

Bồ Tát có năm điều làm tăng trưởng pháp lành:

1.Cúng dường kinh pháp và người thuyết pháp.

2.Nhiếp tâm tinh tấn.

3.Tâm ưa dứt trừ phiền não sanh khởi.

4.Sanh tâm cung kính Bồ Tát đồng hạnh.

5.Tùy thuận giảng nghĩa tạng pháp Bồ Tát.

Có năm điều xét chẳng phải Bồ Tát mà mạo danh Bồ Tát, chẳng phải sa môn, hay Bà la môn mà xưng sa môn hay Bà la môn, chẳng được giới Bồ Tát. Chẳng cùng ở trong Tăng số. Năm điều đó là:

1.Tánh tình hung dữ.

2.Che chở cho người hủy phạm giới cấm.

3.Chẳng được Thiền định lại trá hiện tướng thiền định.

4.Tà mạng nuôi sống.

5.Thấy bậc trí giả sanh lòng ganh ghét, tìm cách phỉ báng.

Có năm điều xét thật là Bồ Tát, chơn thật sa môn hay Bà la môn, được giới Bồ Tát và cùng ở trong Tăng số:

1.Tánh tình điều hòa.

2.Sửa trị những người hủy phạm giới cấm.

3.Thật được Thiền định nhưng chẳng hiện tướng thiền.

4.Sống bằng đường lối sinh hoạt chơn chánh.

5.Thấy bậc trí giả sanh tâm vui mừng, ca ngợi đề cao.

Đại Bồ Tát dạy dỗ chúng sanh, gồm có 10 điều:

1.Vì để pháp ác pháp.

2.Vì để biết pháp giới.

3.Chẳng cho phạm phải.

4.Phạm rồi hổ thẹn hối cải.

5.Chế ngự các giác quan.

6.Chẳng hề buông lung.

7.Xa lìa ác trí thức.

8.Ở chỗ vắng lặng.

9.Xa lìa phiền não.

10.Được chứng quả giải thoát.

Thọ ký Bồ Tát có sáu điều:

1.Chắc chắn có tánh Bồ Tát nhưng chưa phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

2.Chưa có tánh Bồ Tát nhưng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

3.Có tánh Bồ Tát và cũng phát tâm Vô thượng Bồ Đề.

4.Trong vô lượng đời vì đạo Bồ Đề mà tu các hạnh lành.

5.Chắc chắn được Vô thượng Bồ Đề nhưng không nói rõ thời gian nhứt định.

6.Chắc chắn được Vô thượng Bồ Đề và cũng nói rõ thời gian nhứt định.

Có ba điều xác định Bồ Tát sẽ được Vô thượng Bồ Đề:

1.Xác định có tánh Bồ Tát.

2.Được tâm bất thoái.

3.Phàm làm việc gì cũng nhằm mục đích sanh mầm pháp lành cho các chúng sanh.

Bồ Tát do ba sự xác định này, quyết định được sự thọ ký của Phật.

Đại Bồ Tát không đủ năm việc, chẳng được Vô thượng Bồ Đề:

1.Chẳng phát tâm Bồ Đề.

2.Chẳng được tâm thương xót.

3.Chẳng siêng năng tinh tấn.

4.Chẳng kính trọng giới luật.

5.Chẳng biết tất cả việc thế gian.

Bồ Tát chẳng đủ năm điều như trên, chẳng được Vô thượng Bồ Đề. Người nào nói rằng: Lìa năm pháp này vẫn được Vô thượng Bồ Đề. Điều ấy phi lý.

Có năm điều, luôn luôn là chỗ tu hành của chư Bồ Tát:

1.Chẳng buông lung.

2.Vì phá sự cùng khốn của chúng sanh.

3.Cúng dường Tam Bảo.

4.Hết lòng giữ giới, nếu phạm liền hối.

5.Làm việc lành nào cũng đều hồi hướng Vô thượng Bồ Đề.

Đại Bồ Tát có mười pháp, là pháp hơn hết tất cả. Mười pháp là gì?.

1.Tánh Bồ Tát hơn tất cả tánh.

2.Mới phát tâm Bồ Đề là hơn tất cả những sự phát tâm thế, xuất thế gian.

3.Tinh tấn ba la mật, Bát nhã ba la mật hơn tất cả ba la mật khác.

4.Nhiếp pháp Ái ngữ hơn các nhiếp pháp khác.

5.Như Lai hơn tất cả chúng sanh.

6.Bi tâm hơn tất cả tâm vô lượng.

7.Tu đệ tứ thiền hơn các thiền thiên.

8.Môn không tam muội hơn các tam muội.

9.Diệt tận định hơn các diệt định.

10.Phương tiện thanh tịnh hơn các phương tiện.

Có bốn pháp này, chỉ Phật, Bồ Tát mới hay tự mình làm cho lan rộng, ngoài ra chẳng phải Thiên vương, Phạm vương hoặc là ma vương có thể làm nổi. Nếu những số ấy được nghe từ Phật, tức cũng có thể làm cho lan rộng. Bốn pháp ấy là:

1.Pháp lan rộng.

2.Thật lan rộng.

3.Phương tiện lan rộng.

4.Thừa lan rộng.

-Pháp lan rộng là: Lần lượt diễn nói mười hai phần kinh.

-Thật lan rộng là: Có một cách thức, cách thức ấy là sự không nói vọng.

Lại có hai: Lý tương đối. Lý tuyệt đối.

Lại có ba: Tướng thật. Lời thật. Hạnh thật.

Lại có bốn: Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

Lại có năm: Nhơn thật, Quả thật, Trí thật, Biết cảnh giới thật, Vô thượng thật.

Lại có sáu: Thật sự chơn thật. Thật sự hư vọng. Thật sự sáng suốt. Thật sự xa lìa. Thật sự chứng nhập. Thật sự tu hành.

Lại có bảy: Thật sự ái nhiễm. Thật sự khổ đau. Thật sự giải thoát. Thật sự đúng pháp. Thật sự hiểu biết. Thật sự là thánh. Thật chẳng phải thánh.

Lại có tám: Hành khổ thật. Khổ khổ thật. Sanh khổ thật. Hoại diệt thật. Phiền não thật. Giải thoát thật. Hạnh lành thật. Quả lành thật.

Lại có chín: Vô thường thật. Khổ thật. Bất tịnh thật. Không thật. Vô ngã thật. Hữu ái thật. Đoạn ái thật. Phương tiện dứt hai thứ ái thật. Hữu dư Niết Bàn thật.

Lại có mười: Thật khổ vì không phải bổn phận nhưng bị cưỡng ép làm việc. Thật khổ vì nghèo nàn. Thật khổ vì bốn đại không điều hòa. Thật khổ vì ái ân chia lìa. Thật khổ vì oán hờn gặp gỡ. Nghiệp nhân thật. Quả báo thật. Phiền não thật. Khéo tư duy thật. Nhận thức đúng đắn thật.

Trên đây là mười pháp thuộc về Thật lan rộng.

-Phương tiện lan rộng: Như đã nói ở phần phương tiện.

-Thừa lan rộng: Tức Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật thừa.

Như trên gọi là bốn pháp lan rộng.

Đại bồ Tát quán sát tất cả phương tiện, có năm sự không thể suy lường:

1.Chúng sanh giới không lường.

2.Thế giới không lường.

3.Pháp giới không lường.

4.Điều phục giới không lường.

5.Phương tiện điều phục không lường.

-Chúng sanh giới không lường: Gồm có 62 món kiến. Bồ Tát trụ Hoan hỷ địa, quán về chúng sanh chuyển thành vô lượng.

-Thế giới không lường: Vì không thể lường cho nên có vô lượng tên. Như thế giới này gọi là Ta bà, Trời Phạm vương, gọi là chủ cõi Ta bà.

-Pháp giới không lường: Nghĩa là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký chuyển thành vô lượng.

-Điều phục giới không lường: Có một nghĩa ấy là: Có sự điều phục.

Lại có hai: Đủ phiền não. Chẳng đủ phiền não.

Lại có ba: Thượng căn. Trung căn. Hạ căn.

Lại có bốn: Bà la môn. Sát đế lợi. Tỳ xá. Thủ đà.

Lại có năm: Nhiều tham. Nhiều giận. Nhiều si. Nhiều ngã mạn. Nhiều giác quán ác.

Lại có sáu: Tại gia. Xuất gia. Chưa thuần thục. Đã thuần thục. Chưa giải thoát. Đã giải thoát.

Lại có bảy: Nghe rồi liền hiểu. Nhờ thí dụ được hiểu. Mỗi câu mỗi câu tự hiểu. Mỗi chữ mỗi chữ đều hiểu. Hiện tại thành thục. Đời khác thành thục. Theo nhân duyên thành thục.

Lại có tám: Ấy là tám bộ chúng.

Lại có chín: Được Như Lai điều phục. Được Bồ Tát điều phục. Được Thanh Văn điều phục. Bực Duyên Giác điều phục. Khó điều phục. Dễ điều phục. Nói nhỏ nhẹ điều phục. Quở trách điều phục. Nói nhỏ nhẹ và quở trách để điều phục.

Lại có mười: Địa ngục. Súc sanh. Ngạ quỷ. Trời người và cõi Dục. Thân trung ấm. Có hình sắc. Không phải có hình sắc. Có tưởng. Không tưởng. Chẳng phải có tưởng chẳng phải không tưởng.

Trên đây là tổng quát tất cả mười pháp, gồm năm mươi lăm chủng loại. Năm mươi lăm chủng loại này nếu đem quán sát chuyển thành vô lượng.

Về cõi chúng sanh, và giới hạn điều phục có gì khác biệt chăng?

Về cõi chúng sanh, chẳng phân biệt là có tánh hay không tánh. Về giới hạn điều phục, có sự phân biệt có tánh, không tánh.

-Phương tiện điều phục không lường:

Như đã nói trong phẩm điều phục ở trước (phẩm thứ bảy).

Năm tính cách vô lượng của Bồ Tát, nhiếp hết tất cả phương tiện. Đại Bồ Tát nếu muốn rõ biết một cách chơn thật phải nên suy ngẫm bốn sự: Suy vật. Suy tên. Suy tánh và Suy về phân biệt. Bốn nghĩa như thế đã nói ở trước.

Các đức Phật, các vị Bồ Tát, vì chúng sanh nói pháp, có năm điều kết quả:

1.Khi nói, chúng sanh liền tỏ ngộ bốn Thánh đế.

2.Khi nói, ngay đó chúng sanh được pháp giải thoát.

3.Khi nói, ngay đó chúng sanh phát tâm vô lượng Bồ Đề.

4.Khi nói, ngay đó chúng sanh được pháp nhẫn của Bồ Tát.

5.Chúng sanh nghe rồi thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, hộ trì chánh pháp.

Như trên gọi là: Chư Phật, Bồ Tát vì chúng sanh nói pháp được công đức chẳng thể nghĩ bàn.

Sao gọi là Đại thừa?

Có bảy ý nghĩa rộng lớn, cho nên gọi là Đại thừa. Những gì là bảy?

1.Pháp lớn. 2.Tâm lớn. 3.Sự hiểu lớn. 4.Thanh tịnh lớn. 5.Sự trang nghiêm lớn. 6.Thời gian lớn. 7.Đầy đủ lớn.

-Pháp lớn: Trong mười hai phần giáo thì Tạng pháp Bồ Tát cực kỳ rộng lớn, rất là cao tột, cho nên gọi là Đại phương quảng (tỳ Phật lược).

-Tâm lớn: Nghĩa là phát tâm Vô thượng Bồ đề.

-Sự hiểu lớn: Hiểu Tạng pháp Bồ Tát và các kinh Phương quảng.

-Thanh tịnh lớn: Khi Bồ Tát phát tâm rồi, thì tâm của người thuần túy trong sạch, mãi đến lúc chứng Vô thượng Bồ Đề.

-Sự trang nghiêm lớn: Đại Bồ Tát đầy đủ công đức trang nghiêm, trí tuệ trang nghiêm và được Vô thượng Bồ Đề.

-Thời gian lớn: Đại Bồ Tát vì Vô thượng Bồ Đề, tu các hạnh khổ trong ba vô số kiếp.

-Đầy đủ lớn: Đại Bồ Tát đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp đề tự trang nghiêm, chứng được Vô thượng Bồ Đề.

Pháp lớn, Tâm lớn, Hiểu biết lớn, Thanh tịnh lớn, trang nghiêm lớn, thời gian lớn. Sáu nghĩa lớn này là nhân. Đầy đủ lớn là quả.

Có tám pháp hay nhiếp tất cả Đại thừa:

1.Diễn nói tạng pháp Bồ Tát.

2.Nói nghĩa lý của Bồ Tát tạng.

3.Nói về sự không thể nghĩ bàn của Phật, Bồ Tát trong Bồ Tát tạng.

4.Tư duy về nghĩa.

5.Tu tập nghĩa ấy.

6.Được nghĩa đầy đủ.

7.Được quả vị tu tập.

8.Hiểu nghĩa rất sâu.

Đại Bồ Tát tu học tám pháp như thế là chứng Vô thượng Bồ Đề.

BồTát học đạo Bồ Đề của Bồ Tát, gồm có mười việc. Đây là mười:

1.Tánh trụ.

2.Nhập.

3.Tâm chẳng tịnh.

4.Tâm tịnh.

5.Chẳng thành thục.

6.Thành thục.

7.Không chắc chắn.

8.Chắc chắn.

9.Một đời nữa chứng được.

10.Hiện đời chứng được tánh quyết định.

-Tâm thanh tịnh học các pháp gọi là Tánh trụ.

-Phát tâm Vô thượng Bồ Đề gọi là Nhập.

-Sự thể nhập chưa đến chỗ thanh tịnh gọi là chẳng tịnh.

-Được chỗ thanh tịnh gọi là tâm tịnh.

-Sự thanh tịnh chưa vào địa cứu cánh gọi là chưa thành thục.

-Vào địa vị cứu cánh, gọi là thành thục.

-Sự thành thục chưa quyết định, gọi là không chắc chắn.

-Đã vào địa vị quyết định gọi là chắc chắn.

Sự thành thực có hai:

-Một đời nữa chứng Vô thượng Bồ Đề.

-Thân hiện đời được Vô thượng Bồ Đề.

Mười điều như trên, Đại Bồ Tát thường thọ giới Bồ Tát. Mười điều trên đây, Bồ Tát nhiếp hết tất cả Bồ Tát. Nếu ai luôn luôn chí tâm thọ trì và luôn thực hành giới của Bồ Tát, bực này gọi là Bồ Tát ma ha tát, gọi là bực trí nhân, là bực dõng kiện, là bực Thượng tiến, gọi là Phật tử, gọi là được Phật Hộ trì, là bực Đại thắng, gọi là giới của Phật, là đấng Vô úy, là đấng Đại thánh, là bậc Thương chủ, gọi là Thuyền sư, còn gọi là đấng tiếng đồn vang dội, là đấng thương xót, là đấng Đại công đức, đấng Đại tự tại, Đấng Rõ biết các pháp, đấng chẳng thể nghĩ bàn, và gọi là đấng “Rõ biết mười phương vô lượng Thế giới như xem trái am-ma-lặc trong lòng bàn tay”.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, chẳng thọ giới Bồ Tát, chẳng thường chí tâm thực hành giới Bồ Tát nhưng sanh được tín tâm”, nên biết Bồ Tát này muốn được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát chẳng thường hết lòng trì giới Bồ Tát, tâm chẳng tin tưởng” Đây gọi là danh dự Bồ Tát, người này lâu lắm mới được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, thọ trì giới Bồ Tát, chí tâm tu hành và tin giới Bồ Tát” Bực này gọi là vào trong mười hạng Bồ Tát, chẳng bao lâu quyết định được Vô thượng Bồ Đề.

Nếu có người nói: “Tôi là Bồ Tát, thọ giới Bồ Tát mà chẳng thường hay dốc lòng hộ trì giới cấm, trái lại còn hủy những giới đã thọ, tâm không tin tưởng giới pháp Bồ Tát” Đây gọi là Bồ Tát chiên đà la, chẳng gọi là Bồ Tát thật sự, chẳng được gọi là Bồ Tát đúng nghĩa.


Xem dưới dạng văn bản thuần túy